![]() |
![]() |
Bộ Y tế vừa có Quyết định về việc ban hành tài liệu hướng dẫn phục hồi chức năng và tự chăm sóc các bệnh có liên quan sau mắc Covid-19.
Theo Bộ Y tế, Covid-19 có thể gây ra các vấn đề sức khoẻ và các triệu chứng lâu dài ảnh hưởng đến các sinh hoạt thường ngày. Trong một số trường hợp, những triệu chứng này có thể tồn tại quá 12 tuần và nay được gọi là các tình trạng sau mắc Covid-19.
Trong tài liệu hướng dẫn, Bộ Y tế đưa ra lưu ý về những biến chứng y khoa có thể xuất hiện trong quá trình phục hồi sau khi mắc Covid-19.
Đặc biệt, khi thấy xuất hiện bất kỳ triệu chứng nguy hiểm nào trong 5 dấu hiệu cảnh báo sau đây, người dân cần sự trợ giúp y tế khẩn cấp từ nhân viên y tế:
- Thấy khó thở khi hoạt động nhẹ mà tình trạng này không cải thiện khi thực hiện bất kỳ tư thế làm giảm khó thở như: Nằm sấp; nằm nghiêng một bên cao đầu với đầu gối co nhẹ; ngồi cúi đầu ra trước; đứng cúi đầu ra trước, tay chống hông hoặc eo; thực hiện các kỹ thuật tập thở…
- Có sự thay đổi tình trạng khó thở khi nghỉ ngơi mà không thấy đỡ hơn khi thực hiện các kỹ thuật vận động và tập thể dục.
- Thấy đau ngực, tim đập nhanh hoặc chóng mặt khi ở một số tư thế hoặc trong quá trình tập luyện hay hoạt động thể lực.
- Tình trạng lẫn lộn ngày càng xấu đi hoặc bạn cảm thấy khó nói hay khó hiểu lời nói.
- Thay đổi cảm giác và vận động trên mặt, tay hay chân, đặc biệt là các dấu hiệu này chỉ có ở một bên cơ thể hoặc tình trạng lo âu hay tâm trạng xấu đi, hay có ý nghĩ muốn làm hại bản thân.
Trong tài liệu này, Bộ Y tế còn đưa ra lưu ý về vấn đề khám và tư vấn quản lý mệt mỏi - một trong những triệu chứng thường gặp nhất ở giai đoạn hồi phục sau mắc Covid-19.
Khi mệt mỏi, bạn sẽ cảm thấy cơ thể mình rất nặng nề và ngay cả những hoạt động thể lực dù nhẹ nhàng cũng tiêu tốn rất nhiều năng lượng.
Bạn sẽ khó tập trung suy nghĩ, hoặc tiếp nhận thông tin mới, trí nhớ cũng như công việc, học tập bị ảnh hưởng. Thậm chí, việc tìm từ ngữ đơn giản để viết hay nói có thể trở thành khó khăn.
Các chuyên gia y tế khuyến cáo nếu mệt mỏi trong giai đoạn phục hồi hậu Covid-19, bạn nên xây dựng một kế hoạch linh hoạt cho phép hoạt động trong khả năng hiện tại và tránh bị quá tải.
Xác định những hoạt động nào trong ngày là cần thiết - nghĩa là những việc nào “cần” làm và những việc bạn “muốn” làm, những việc nào có thể được thực hiện vào một thời điểm khác, một ngày khác và những việc mà người khác có thể hỗ trợ…
Bạn cần đi khám tại phòng khám chuyên khoa nếu tình trạng mệt mỏi kéo dài mặc dù đã tự điều chỉnh về nhịp độ và các hoạt động ưu tiên.
Những mệt mỏi đó ảnh hưởng rõ rệt đến sức khỏe và sinh hoạt hằng ngày kèm theo một số triệu chứng như: Mệt mỏi sau khi làm việc gắng sức và kéo dài trên 24 giờ; ngủ không yên giấc; suy giảm trí nhớ hoặc khả năng tập trung; đau cơ, đau nhiều khớp nhưng không sưng, nóng, đỏ; đau họng hoặc loét miệng; đau đầu…
Đặc biệt, người dân không nên trì hoãn mà cần đi khám tại các phòng khám chuyên khoa tương ứng nếu cảm thấy mệt mỏi kéo dài sau mắc Covid-19, đồng thời có bệnh mạn tính về tim mạch (bệnh mạch vành, suy tim...); bệnh nội khoa (đái tháo đường, bệnh thận mạn, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính...) hoặc có biến chứng về tim mạch, hô hấp... trong thời gian nhiễm Covid-19.
Dậy thì sớm là tình trạng trẻ phát triển các đặc tính sinh dục thứ phát đánh dấu sự trưởng thành về sinh dục sớm hơn bình thường, trước 8 tuổi ở trẻ gái (có kinh trước 9,5-10 tuổi) và trước 9 tuổi ở bé trai.
Tiến sĩ, bác sĩ Huỳnh Thị Vũ Quỳnh, Trưởng khoa Thận Nội tiết, Bệnh viện Nhi đồng 2 TP.HCM cho biết, mỗi ngày, nơi đây thăm khám từ 20-30 trẻ dậy thì sớm. Trong số đó, khoảng 6 trẻ phải nhập viện để chẩn đoán, điều trị can thiệp.
“Câu hỏi phụ huynh thường xuyên đặt ra là, có phải vì con uống sữa nhiều quá nên bị dậy thì sớm hay không? Đây là quan niệm sai lầm!”, bác sĩ Vũ Quỳnh khẳng định.
Theo thống kê, trẻ dậy thì sớm trung ương (dậy thì sớm thật sự) có đến 80% là vô căn. Ngoài ra, có thể do khối u thần kinh trung ương, u tuyến yên, nhiễm trùng thần kinh trung ương, yếu tố di truyền hoặc phơi nhiễm quá mức hormone sinh dục…
Các bác sĩ nhận định, sữa có thể liên quan gián tiếp đến dậy thì sớm nếu trẻ đó bị béo phì.
TS.BS Nguyễn Thị Thu Hậu, Trưởng khoa Dinh dưỡng, Bệnh viện Nhi đồng 2 lý giải, tế bào mỡ có thể tiết ra được một số hóa chất có tính chất như hormon (kích thích tố leptin). Trẻ béo phì lại có quá nhiều các mô mỡ, vì vậy nguy cơ dậy thì sớm cũng cao hơn trẻ khác.
Nhưng sữa tại sao gây ra béo phì, dư cân? Bác sĩ Hậu phân tích, ở trẻ dưới 1 tuổi, sữa là thức ăn chủ yếu, rất nhiều dinh dưỡng. Trên 1 tuổi, trẻ vẫn cần duy trì 400-500ml sữa hoặc chế phẩm sữa mỗi ngày, để đảm bảo đủ canxi giúp trẻ phát triển chiều cao tối đa.
Khi trẻ 2 tuổi, cấu trúc não đạt 80% so với người lớn, nhu cầu chất béo không nhiều như trước. Tuy nhiên, phụ huynh vẫn cho trẻ uống sữa nguyên kem, sữa nhiều đường với số lượng lớn. Từ đó, trẻ dễ dàng bị dư cân, béo phì.
“Lỗi không phải tại sữa mà chúng ta cho trẻ uống sữa như thế nào”, bác sĩ Hậu kết luận.
Nhiều nghiên cứu đã chứng minh, những em bé bú sữa mẹ ít bị béo phì hơn trẻ uống sữa công thức. Nguyên nhân là trong sữa mẹ, lượng đạm thấp và đều là các đạm quý. Còn trong sữa bò, lượng đạm quá cao khiến trẻ tăng cân nhanh và “nhạy cảm” với việc tích tụ mỡ sau này.
"Ngay cả trẻ sinh non thiếu tháng, bắt buộc phải nuôi bằng sữa có độ đạm cao cũng có mặt trái là nguy cơ béo phì cao hơn", bác sĩ Hậu phân tích.
Trước băn khoăn về sữa và thịt gia súc chứa hormon tăng trưởng có thể gây ra dậy thì sớm, bác sĩ Huỳnh Thị Vũ Quỳnh nhấn mạnh, đây là quan niệm sai lầm. Hormon dậy thì là hormon sinh dục, bản chất là hormon steroid. Trong khi đó, bản chất của hormon tăng trưởng là protein (peptit), khi đi vào dạ dày, sẽ cắt ra thành các axit amin.
Do đó không có mối liên quan giữa hormon tăng trưởng và dậy thì sớm.
Các bác sĩ lưu ý, cha mẹ không nên cắt khẩu phần sữa khi trẻ béo phì hay dậy thì sớm vì trẻ vẫn cần bổ sung canxi, phát triển chiều cao. Thay vì sữa béo, sữa nguyên kem, trẻ béo phì nên uống sữa tách béo và ít đường.
Phụ huynh cần cắt nguồn năng lượng rỗng từ đồ ăn vặt, bánh kẹo, nước ngọt, các loại thức ăn nhanh, đồ chiên, da heo, da gà… để kiểm soát cân nặng cho trẻ.
Hiện nay, tỷ lệ trẻ dậy thì sớm ở Việt Nam và thế giới đều tăng cao, tuổi dậy thì cũng sớm hơn. Đặc biệt, trong số các bệnh nhi dậy thì sớm đến khám tại Bệnh viện Nhi đồng 2, khoảng 95% là trẻ gái.
Tuy nhiên, không phải trẻ nào cũng cần can thiệp điều trị. Bác sĩ sẽ đánh giá tuổi khởi phát, mức độ tiến triển tuổi xương, vấn đề tâm lý… từng trường hợp. Từ đó, xem xét chỉ định can thiệp hay không.
Nếu cần điều trị, thời gian thường kéo dài đến khi trẻ 11-12 tuổi. Sau khoảng 9-16 tháng ngưng can thiệp, trẻ gái sẽ có kinh nguyệt trở lại. Khi đó, các dấu hiệu dậy thì đã phù hợp với độ tuổi phát triển của trẻ và bạn bè cùng trang lứa.