Những "bịa đặt chết người" trong "Tam quốc diễn nghĩa"

Dịch giả Trần Đình Hiến sẽ có những mổ xẻ hết sức thú vị về những "bịa đặt chết người" dưới góc độ lịch sử trong bộ tiểu thuyết nổi tiếng "Tam quốc diễn nghĩa".

Trở thành một dịch giả nổi tiếng về Văn học Trung Quốc (người dịch rất thành công các tác phẩm của Mạc Ngôn; và mới đây là Totem Sói), Trần Đình Hiến đã có những tìm hiểu sâu rộng về lịch sử, văn hóa Trung Hoa và trải qua nhiều năm trực tiếp sống, làm việc tại Trung Quốc.
Khi GĐ&XH đề nghị ông viết về những “bịa đặt chết người” về mặt lịch sử trong bộ tiểu thuyết nổi tiếng “Tam Quốc diễn nghĩa” (thực ra, tiểu thuyết được quyền hư cấu, nhưng khi đọc “Tam Quốc diễn nghĩa”, rất nhiều người đã tin những câu chuyện trong đó là sự thật lịch sử), ông đã hứng khởi nhận lời.
Kỳ 1: Nhào nặn, tô vẽ lịch sử
“Uống rượu luận anh hùng”, “Ba lần đến lều tranh”: Bịa
Trung Quốc có 4 danh tác:
1. “Tam quốc diễn nghĩa” của La Quán Trung, xuất hiện cuối Nguyên đầu Minh, thế kỷ XV.
2. “Thủy hử” của Thi Nại Am, xuất hiện dưới triều Minh (thế kỷ XV – XVI).
3. “ Tây du ký” của Ngô Thừa Ân, xuất hiện dưới triều Minh (thế kỷ XV – XVI)
4. “ Hồng lâu mộng” xuất hiện vào đời Càn Long (1736 – 1796) triều Mãn Thanh.
Trong 4 tác phẩm trên, “Hồng lâu mộng” được dánh giá cao nhất về nghệ thuật, nhưng ảnh hưởng sâu rộng trong xã hội Trung Quốc và nước ngoài, thì phải kể đến “Tam quốc diễn nghĩa”.
“Tam quốc diễn nghĩa” là bộ tiểu thuyết lịch sử viết về “Tam quốc”. “Tam quốc” nhằm chỉ ba nước Ngụy, Thục, Ngô cùng tồn tại trong “thế chân vạc” trong khoảng 60 năm.
Năm 220 Tào Phi xưng Đế, năm 221 Lưu Bị xưng Đế, năm 222 Tôn Quyền xưng Đế. Đến năm 280, Tấn Vũ Đế thu phục ba nước, lập ra triều Tấn, chấm dứt “Tam quốc”. Nhưng nếu căn cứ vào những sự kiện lịch sử thì lịch sử Tam quốc phải kể từ niên hiệu Sơ Bình năm thứ nhất đời Hán Hiếu Đế (190) đến niên hiệu Thái Khang năm thứ nhất đời Tấn Vũ Đế (280), tổng cộng 90 năm. Nhà sử học Phạm Văn Lan trong Trung Quốc thông sử, gọi thời kỳ này là thời kỳ chia rẽ.
Nhung
Ảnh minh họa. 
Tam quốc là thời kỳ lịch sử đầy những biến cố phi thường. Những nhân vật tạo nên các biến cố đó như Tào Tháo, Lưu Bị, anh em Viên Thiệu, Viên Thuật, anh em Tôn Sách, Tôn Quyền v.v... khi chính thức hình thành Tam quốc đều đã vắng mặt. Mà nếu thiếu họ thì không thành “Tam quốc”. Không chỉ các nhân vật lịch sử vắng mặt, mà những câu chuyện khiến người ta si mê, như “uống rượu luận anh hùng”, “ba lần đến lều tranh”... đều không có chỗ trong lịch sử “Tam quốc”.
“Nhất tướng công thành, vạn cốt khô”
Vì lẽ đó, chính sử cũng như dã sử, người ta đều phân định Tam quốc bắt đầu từ loạn Đổng Trác hoặc sớm hơn, cho đến khi vương triều Tây Tấn được thành lập. Lại nữa, “thế chân vạc” Ngụy, Thục, Ngô thực ra đã hình thành trước khi thật sự hình thành Tam quốc. Các thế lực quân phiệt ở các địa phương lớn mạnh lên qua các cuộc đàn áp nông dân khởi nghĩa cuối đời Đông Hán. Tiếp đó là cuộc hỗn chiến giữa các quân phiệt. Cuối cùng, còn lại ba thế lực lớn nhất là Tào Tháo, Lưu Bị, Tôn Quyền tranh nhau ngôi bá chủ, và sau đó cả ba bị diệt, vương triều Tấn được thành lập.
Tam quốc là thời kỳ động loạn. Đây là thời kỳ chinh chiến triền miên, khói lửa ngất trời, xác chết đầy đồng, dân sống vất vưởng. Nhưng người ta có câu: “Trai thời loạn” - Đây cũng là thời kỳ xuất hiện các anh hùng hào kiệt cùng với những giang hồ hảo hán, và cả những kẻ côn đồ. Đủ các loại người. Hùng tài đại lược như Tào Tháo, cúc cung tận tụy như Gia Cát Lượng, tài hoa lỗi lạc như Chu Du, kiên trì nhẫn nại như Lưu Bị, coi trọng tình nghĩa như Quan Công...
Sức hấp dẫn của tác phẩm “Tam quốc diễn nghĩa” vượt lên các trứ tác lịch sử. Vì rằng tác phẩm văn nghệ cần sự tưởng tượng và hư cấu.
Trên cơ sở lịch sử, lấy lịch sử làm đề tài để tưởng tượng và hư cấu, hư hư thực thực, nửa thật nửa giả, rồi thì, do sức hấp dẫn ma mị của văn nghệ, giả biến thành thực, những hình tượng giả do văn nghệ tạo nên, lại như hình tượng lịch sử đích thực. Trường hợp “Tam quốc diễn nghĩa” là như vậy.
Từ quan điểm khoa học về lịch sử mà xét, những người nói trên không chỉ là anh hùng thời đại, mà còn là anh hùng dân tộc, vì rằng người nào cũng muốn chấm dứt chiến tranh, đất nước thống nhất, thiên hạ thái bình. Có điều, người nào cũng muốn giành lấy nhiệm vụ lịch sử ấy, không muốn nhường cho kẻ khác. Chính vì vậy mà nảy sinh mâu thuẫn, thậm chí xung đột, biến nhau thành kẻ thù không đội trời chung, một mất một còn. Rồi thì thắng lợi cuối cùng lọt vào tay một người, đúng như câu “Nhất tướng công thành, vạn cốt khô”.
Nhào nặn lịch sử, tạo sự hấp dẫn
Cho nên có thể nói rằng, chiến tranh giữa Ngụy, Thục, Ngô là không thể tránh khỏi, không còn cách nào khác. Lịch sử cứ thế tiếp diễn theo hai vế tương phản. Một vế dùng chiến tranh để kết thúc chiến tranh. Vế thứ hai là nhân dân chịu muôn vàn khổ cực để kết thúc chiến tranh. Vậy khi tán dương những anh hùng lịch sử, không được quên nỗi khổ không thể đong đếm được mà nhân dân phải gánh chịu.
Một đặc điểm của “Tam quốc” là thời gian ngắn. Ngụy, Thục, Ngô chỉ tồn tại được nửa thế kỷ, nếu cộng cả “tiền Tam quốc” cũng chỉ được 90 năm. 90 năm so với lịch sử một dân tộc chỉ một thoáng, như bóng câu qua cửa sổ. Mọi người chưa kịp suy ngẫm thì mọi chuyện đã trở thành quá khứ, trở thành lịch sử. Lịch sử thường do người chiến thắng ghi chép, không tránh khỏi thiếu công bằng. Dân gian chép sử thì năm người mười ý, “Sư nói sư phải, vãi nói vãi hay”. Ý kiến của các học giả cũng ít khi nhất trí. Thí dụ, Gia Cát Lượng ra khỏi lều tranh là do Lưu Bị ba lần đến thỉnh cầu, hay là ông ta tự tiến cử? Trận Xích Bích là do công của Hoàng Cái hay là Tào Tháo tự đốt chiến thuyền rồi rút lui? Vì sao có chuyện tam sao thất bản như vậy? Xin xem tiếp những phần sau sẽ rõ.
Kịch tính trong lịch sử “Tam quốc” là đối tượng lọt vào mắt xanh của những nhà sáng tác văn học nghệ thuật và luôn luôn là đề tài để đời sau bình phẩm. Ai biết Lưu Bị thì hiểu Lưu Bị hơn Lưu Tú. Ai biết Tào Tháo thì hiểu Tào Tháo hơn Vương Mãng. Nhưng định hướng những suy nghĩ và cách nhìn khác nhau về một mối là do ý đồ trong tác phẩm văn nghệ, mà ở đây là “Tam quốc diễn nghĩa”.
Nhung
Ảnh minh họa. 
Ngoài những lí do trên, “Tam quốc diễn nghĩa” còn một yếu tố quan trọng khác. Đó là do tư tưởng “tôn quân”. La Quán Trung đã vừa hư cấu vừa nhào nặn lại các sự kiện và bộ mặt các nhân vật lịch sử: Ai tôn phò nhà Hán thì dù bất tài cũng được tô vẽ thành anh hùng, tài năng quán thế, nhân cách cao thượng; ai chống lại nhà Hán – mặc dù đó là một triều đại đã mọt ruỗng - thì dù tài năng quán thế cũng trở nên bất tài, tư cách hèn hạ.
Tuy nhiên, sự vật bao giờ cũng có hai mặt của nó. Mặt thành công của “Tam quốc diễn nghĩa” nói trên, đi kèm với thất bại (trớ trêu thay, cũng có thể gọi là thành công) trong việc tiêu chí hóa mẫu người anh hùng đã nhào nặn người Trung Quốc thành những con người không thực, nhân cách méo mó, giả nhân giả nghĩa.
Theo dõi lịch sử Trung Hoa từ đời Tống trở đi thì rõ.
Trên đây là tổng quan về bộ tiểu thuyết trường thiên “Tam quốc diễn nghĩa”, một tiểu thuyết chương hồi, ảnh hưởng sâu sắc đến sự hình thành nhân cách của người Trung Quốc. Biết bao thế hệ người Trung Quốc say mê “Tam quốc diễn nghĩa”, người làm tướng tìm thấy ở đây mưu thần chước quỷ, kẻ làm quan rút ra ở đây những xảo thuật trị dân, triều Mãn Thanh còn lệnh cho hoàng gia phải thuộc lòng “Tam quốc diễn nghĩa”. “Tam quốc diễn nghĩa” trở thành sách gối đầu giường từ dân đến quan ở Trung Quốc, chí ít trong khoảng 500 năm lịch sử.
“Tam quốc chí”, “Tam quốc chí chú”, “Tam quốc diễn nghĩa”: Cuốn nào đáng tin?
Nhưng chính từ “Tam quốc diễn nghĩa”, ta thấy rõ hơn văn hóa truyền thống Trung Quốc và các anh hùng hảo hán tượng trưng cho lí tưởng thời đại trong “Tam quốc diễn nghĩa” đã được nhào nặn như thế nào?
Trước hết hãy làm rõ mối quan hệ giữa “Tam quốc chí”, “Tam quốc chí chú” với tiểu thuyết “Tam quốc diễn nghĩa”.
Tây Tấn diệt Ngụy, Thục, Ngô thống nhất Trung nguyên năm 280. Sau đó 5 năm, tức năm 285, Trần Thọ biên soạn xong “Tam quốc chí”. Trần Thọ quê Tứ Xuyên, tính cách điềm đạm, trung thực và đặc biệt rất thận trọng đối với công việc chép sử. Ông là một nhà sử học chân chính. Với thái độ cực kỳ cẩn trọng, ông ghi chép những gì đã được xác minh là đúng với sự thực. Với những vấn đề tồn nghi, ông không chép nếu thấy vô lý. Với những vấn đề còn phân vân hoặc thiếu sử liệu chứng thực, ông vẫn chép nhưng có ý kiến bảo lưu để người đời sau bàn tiếp. Vì khoảng cách mới 5 năm, chứng nhân lịch sử rất nhiều và vì người ta chưa kịp quên, nên hầu hết những gì ông khẳng định đều chính xác. Nhưng cũng vì thời gian quá ngắn so với công việc sưu tầm biên khảo, nên ông chưa kịp thu thập rất nhiều sự kiện và một số nhân vật lịch sử. Do đó mới có bộ “Tam quốc chí chú” (chú giải Tam quốc chí) của Bùi Tùng Chi xuất hiện sau đó 130 năm (năm 413).
Bùi Tùng Chi quê gốc Sơn Đông, sống vào thời Lưu Tống - Nam Bắc triều. Về tính cách, ông cũng cẩn thận như Trần Thọ. Vì có độ lùi 130 năm, đủ để ông thu thập hết những gì Trần Thọ bỏ sót hoặc phân vân chưa quyết. Sử liệu trung thực và những lời bình xét xác đáng của hai ông khiến hai bộ sách này trở thành chính sử có độ tin cậy cao, người đời sau mỗi khi tranh luận về Tam quốc mà ý kiến bất đồng, đều lấy “Trần chí, Bùi chú” làm trọng tài phân xử.
Tiếp đó, sau 1.100 năm, tức vào cuối Nguyên đầu Minh (cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV) xuất hiện tiểu thuyết “Tam quốc diễn nghĩa” của La Quán Trung. Ông người Sơn Tây (có thuyết nói ông quê Tiền Đường-Chiết Giang hoặc Lư Lăng-Giang Tây), nghe nói là học trò Thi Nại Am (tác giả tiểu thuyết “Thủy hử”). La Quán Trung dựa vào sử liệu Tam quốc để sáng tác bộ tiểu thuyết trường thiên “Tam quốc diễn nghĩa”.
Xuất phát từ tư tưởng bảo hoàng, bằng sức tưởng tượng và hư cấu của một nhà văn tài năng trác việt, La Quán Trung nhào nặn lại các sự kiện và nhân vật lịch sử cho phù hợp với lí tưởng tôn quân của ông. Người nào trung thành với nhà Hán thì dù bất tài cũng được ông tô vẽ thành chính nhân quân tử. Ai chống lại nhà Hán thì dù là bậc anh hùng hào kiệt, ông cũng gán cho cái tên “gian thần quốc tặc”.

Hai cao thủ Tam Quốc "ẩn tàng" một văn một võ, cả đời không xuất sơn

Thời kỳ Tam Quốc vẫn còn hai bậc thầy một văn một võ, đến hết đời cũng không xuất sơn, để rồi bị lu mờ giữa thời đại loạn thế anh hùng.

Cuộc đấu tranh giữa ba nước Ngụy - Thục - Ngô vào thời kỳ Tam Quốc có thể nói theo một cách khác là cuộc so tài giữa các mưu thần võ tướng.

Tào Ngụy dựa vào mưa trí của Tuân Úc, Quách Gia, Cổ Hử cùng với hàng ngàn võ tướng như Hạ Hầu Uyên, Trương Liêu, Trương Hợp để đối đầu với Gia Cát Lượng, Quan Vũ, Trương Phi, Triệu Vân của Thục Hán, đồng thời còn có tài trí của Chu Du, Lỗ Túc, Lục Tốn chỉ huy những mãnh tướng Lăng Thống, Cam Ninh, Chu Hằng của Đông Ngô.

Thời kỳ Tam Quốc vẫn còn hai bậc thầy một văn một võ, đến hết đời cũng không xuất sơn, để rồi bị lu mờ giữa thời đại loạn thế anh hùng.

Hai cao thu Tam Quoc
 Thủy Kính tiên sinh Tư Mã Huy.

Người đầu tiên đó là Thủy Kính tiên sinh Tư Mã Huy, một kỳ tài thời Đông Hán Hoàn Đế. Ông từng rất muốn báo ơn quốc gia, nhưng nhìn thấy Hoàng đế ngày đêm hoan lạc tửu sắc, đại thần tranh quyền đoạt lợi, vì vậy Thủy Kính tiên sinh mới từ bỏ ý niệm làm quan, trở về Kinh Châu mở một lớp học. . Mục đích không chỉ là truyền thụ tư tưởng trị quốc và tài năng của bản thân, mà còn để đào tạo một thế hệ kiệt xuất mới có thể giải cứu triều đại Đông Hán.

Ngoài Ngọa Long Gia Cát Lượng và Phượng Sồ Bàng Thống, lứa học trò kiệt xuất của ông còn rất nhiều cái tên nổi tiếng khác như Từ Thứ, Thôi Châu Bình hay Thạch Quảng Nguyên.

Hai cao thu Tam Quoc
Phượng Sồ Bàng Thống và Ngọa Long Gia Cát Lượng là hai đệ tử xuất sắc nhất của Thủy Kinh tiên sinh. 

Từ Thứ chính là người khiến Lưu Bị hiểu được tầm quan trọng của một quân sư trong quân đội, là người giúp Lưu Bị có những chiến thắng và giành được địa bàn đầu tiên trong sự nghiệp. Từ Thứ sau vì bất đắc dĩ mà đầu quân cho Tào Tháo, tuy không giúp Tào đánh Lưu Bị nhưng là người đào tạo ra thiếu niên thiên tài Tào Sung. Sau khi Tào Sung chết yểu, Từ Thứ trở thành một thành viên của quân Tây Lương, chính vì sự tồn tài của Từ Thứ mà tộc Hung Nô và tộc Khương không dám vượt biên.

Cùng với Từ Thứ, Thôi Châu Bình và Thạch Quảng Nguyên là những người bạn thân từ nhỏ của Gia Cát Lượng. Thôi Châu Bình không tham gia vào thế sự nhưng không vì thế mà tài năng của ông bị đánh giá thấp. Ông thích ngao du tự tại, kết giao và cùng đàm đạo với các anh hùng trong thiên hạ. Khi Lưu Bị "Tam cố thảo lư" đã có dịp thỉnh giáo Thôi Châu Bính, ông cũng đã có ý thăm dò Lưu Bị nhưng chỉ tiếc Lưu Bị lúc đó một lòng hướng về Gia Cát Lượng.

Còn Thạch Quảng Nguyên thì sớm đã ra sức giúp Tào Tháo, tài năng của ông sớm được trọng dụng và thăng tiến đến chức Thứ sử Thanh Châu. Thiết nghĩ có thể đào tạo ra một thế hệ toàn những văn thần mưu sĩ quái kiệt như vậy, đủ để chứng minh sự uyên bác của Thủy Kính tiên sinh như thế nào. Chỉ tiếc ông một đời an phận giảng đạo, sau cũng ung dung nhắm mắt tại chính giảng đường của mình.

Nhân vật còn lại là Thương pháp đại sư Đổng Uyên, từ trẻ ông đã bắt đầu ngao du giang hồ hành hiệp trượng nghĩa. Có lần Đổng Uyên đặt chân đến Tịnh Châu, nhìn thấy quân Hung Nô cướp bóc dân Hán, ông đơn thương độc mã xông vào giữa đại quân Hung Nô, giết thủ lĩnh của chúng.

Những tướng lĩnh khác thấy vậy liền xông lên tấn công Đổng Uyên nhưng bị ông vung thương lần lượt đoạt mạng từng tên một, khiến quân Hung Nô hoảng sợ tháo chạy. Cũng sau sự kiện này, Đổng Uyên nghĩ rằng sức lực con người có hạn, cần thêm nhiều người như ông mới đủ để bảo vệ bá tánh. Ông quyết đi tìm những đứa trẻ có tư chất thiên phú và truyền dạy cho chúng tinh hoa võ nghệ cả đời của ông.

Đại đệ tử của ông là Bắc Địa thương vương Trương Tú. Sau khi xuất sư, Trương Tú trở về quê nhà Tây Lương gia nhập quân đội báo quốc. Võ nghệ cao cường lại gan dạ trung nghĩa, Trương Tú được tướng lĩnh cao cấp quân Tây Lương là Trương Tế nhận làm nghĩa tử. Sau khi Trương Tế chết, Trương Tú kế thừa quân đội, từng chém chết con trưởng Tào Ngang và ái tướng Điển Vị của Tào Tháo tại Uyển Thành, Tào Tháo suýt chút nữa cũng bỏ mạng tại đây.

Đệ tử thứ hai của Đổng Uyên là Trương Nhậm, được coi là đệ nhất đại tướng Xuyên Thục, sau khi xuất sư thì được Lưu Chương chiêu mộ, chỉ trong một thời gian ngắn đã đạt được vị trí cấp cao trong quân đội. Khi Lưu Bị công đánh Thành Đô đã gặp không ít khó khăn với Trương Nhậm, đến Phượng Sồ Bàng Thống cũng mất mạng tại trận chiến này. Sau khi Lưu Chương đầu hàng, Trương Nhậm cũng tự vẫn để làm chọn chữ "nghĩa".

Đệ tử thứ 3 của Đổng Uyên là một nhân vật rất quen thuộc, Thường Sơn Triệu Tử Long hay còn gọi là Triệu Vân. Sự tích về Triệu Vân có lẽ không cần phải giới thiệu vì quá nổi tiếng. Sau khi Triệu Vân xuất sư không lâu thì Đổng Uyên cũng qua đời ở trên núi.

Ảnh kịch độc về xe máy ở Việt Nam năm 1992

(Kiến Thức) - Ở Việt Nam đầu thập niên 1990, chiếc xe máy là một tài sản có giá trị rất lớn, chỉ những gia đình khá giả mới có điều kiện sở hữu. Cùng xem loạt ảnh khó quên về xe máy ở Việt Nam năm 1992 do nhiếp ảnh gia Pháp Raymond Depardon thực hiện.

Anh kich doc ve xe may o Viet Nam nam 1992
Một cô gái ngồi trên chiếc Honda Cub 82 ở TP HCM, Việt Nam năm 1992. Ảnh: Raymond Depardon/ Magnum Photos.

Điều bất ngờ về con phố có rạp phim cổ nhất Đông Dương

(Kiến Thức) - Phố Hàng Dầu thường được biết đến như một “thủ phủ” giày dép nổi tiếng của thủ đô Hà Nội. Ít ai biết rằng trên con phố này từng có rạp phim đầu tiên của Đông Dương.

Dieu bat ngo ve con pho co rap phim co nhat Dong Duong
Phố Hàng Dầu là con phố dài khoảng 180 mét kéo dài từ phố Hàng Bè phố Đinh Tiên Hoàng ở phía Nam khu phố cổ Hà Nội. Đây nguyên là đất thôn Nhiễm Thượng, tổng Hữu Túc (sau đổi là tổng Đông Thọ), huyện Thọ Xương cũ.
Dieu bat ngo ve con pho co rap phim co nhat Dong Duong-Hinh-2
Tên gọi phố Hàng Dầu bắt nguồn tù việc thời xưa phố này thời xưa có bán các thứ dầu thảo mộc (như dầu lạc, dầu vừng, dầu bông…) dùng để ăn và thắp đèn.