Cẩn trọng với lợi dưỡng

Thế Tôn đã xác định, người tu nếu vướng mắc vào lợi dưỡng thì không thể thành tựu giới-định-tuệ.

Người tu tuy mang hạnh nguyện “xả phú cầu bần, xả thân cầu đạo”, nhưng sau nhiều năm tu học nhờ công đức làm lợi mình lợi người nên phước báo ngày càng lớn lên. Phước báo có công năng diệu kỳ, dù người tu không vọng cầu nhưng tứ sự (thực phẩm, y phục, thuốc men, sàng tòa) luôn đầy đủ, sung mãn. Và cũng từ đây, lợi dưỡng cùng cung kính bắt đầu đoanh vây đời sống xuất gia.
Ảnh minh họa.
 Ảnh minh họa.
Cố nhiên, lợi dưỡng vốn không có lỗi. Người tu cũng cần một lượng vật chất tối thiểu mới có thể ổn định đời sống, an tâm tu hành. Nhưng khi lợi dưỡng ngày càng nhiều, cung kính ngày càng lớn sẽ trở thành một thách thức cho người xuất gia. Nếu không tỉnh giác xả ly để vượt qua, lợi dưỡng và cung kính sẽ trở thành chướng ngại, nhấn chìm người tu hành không thoát ra được kềm tỏa của tham dục, đắm trước.
Vì vậy, Thế Tôn luôn khuyến cáo hàng đệ tử xuất gia “chớ ôm lòng ham lợi dưỡng”, “chớ khởi lòng đắm trước lợi dưỡng”:
“Một thời Phật ở thành La-duyệt, tại vườn trúc Ca-lan-đà, cùng với năm trăm người.
Bấy giờ vua A-xà-thế thường đem năm trăm nồi cơm cấp cho Ðề-bà-đạt-đa. Khi đó Ðề-bà-đạt-đa danh vang bốn phương, giới đức đầy đủ, tiếng khen đầy đủ, có thể khiến cho vua hàng ngày đến cúng dường.
Lúc đó, Ðề-bà-đạt-đa được lợi dưỡng này rồi. Các Tỳ-kheo nghe được bạch với Thế Tôn:
- Nhân dân trong nước khen ngợi Ðề-bà-đạt-đa, tiếng khen vang xa; khiến cho vua A-xà-thế hằng đến cúng dường.
Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Tỳ-kheo các thầy! Chớ ôm lòng ham lợi dưỡng của Ðề-bà-đạt-đa. Vì sao thế? Người ngu Ðề-bà-đạt-đa tạo ba việc này: thân, miệng, ý hành trọn không kinh sợ, hãi hùng. Như nay người ngu Ðề-bà-đạt-đa sẽ lại hết các công đức lành này. Ví như đem chó dữ cắt mũi nó, nó lại càng thêm hung ác. Người ngu Ðề-bà-đạt-đa cũng lại như thế; nhận lợi dưỡng này rồi bèn khởi cống cao. Thế nên, các Tỳ-kheo, cũng chớ khởi lòng đắm trước lợi dưỡng. Nếu có Tỳ-kheo mắc vào lợi dưỡng sẽ không được ba pháp. Thế nào là ba? Ðó là Giới hiền thánh, Tam-muội hiền thánh và Trí tuệ hiền thánh không được thành tựu. Nếu có Tỳ-kheo không mắc lợi dưỡng sẽ được ba pháp. Thế nào là ba? Ðó là Giới hiền thánh, Tam-muội hiền thánh, và Trí tuệ hiền thánh. Nếu muốn thành tựu ba pháp này nên phát lòng lành chớ mắc lợi dưỡng. Như thế, các Tỳ-kheo, nên học điều này.
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập I, phẩm Địa chủ,
VNCPHVN ấn hành, 1997, tr.434)
Pháp thoại này cho thấy một điều vô cùng thú vị rằng, không phải ngày nay mà tự xa xưa, khi một vị Tỳ-kheo được vua quan hay những người giàu có cung kính, trọng vọng, cúng dường hậu hĩ thì vị ấy trở thành đối tượng quan tâm, ngưỡng vọng của nhiều người, nhất là những người xuất gia trẻ. Thực ra, không phải người xuất gia nào cũng đủ phước duyên để được vua quan cung kính, cúng dường. Mặt khác, không phải sự hỗ trợ nào từ vua quan cũng là hộ trì Chánh pháp đích thực mà đôi khi đó chỉ là mặt tiền của một “liên minh ma quỷ” nào đó mà thôi. Như liên minh giữa vua A-xà-thế và Tỳ- kheo Ðề-bà-đạt-đa trong pháp thoại này là một minh chứng điển hình.
Cho nên, đứng trước thềm lợi dưỡng và cung kính, Thế Tôn luôn khuyến cáo các Tỳ-kheo “chớ ôm lòng ham lợi dưỡng”, “chớ khởi lòng đắm trước lợi dưỡng”. Vì sao? Vì nhận nhiều và đắm trước lợi dưỡng sẽ khởi lên ngã mạn, cống cao và từ đó đi chệch với mục tiêu lý tưởng ban đầu của người xuất gia là thành tựu giới-định-tuệ. Thế Tôn đã xác định, người tu nếu vướng mắc vào lợi dưỡng thì không thể thành tựu giới-định-tuệ, điều này đồng nghĩa với việc không thể vượt qua tham ái, phiền não và sanh tử.
Vì thế, “chớ ôm lòng ham lợi dưỡng”, “chớ khởi lòng đắm trước lợi dưỡng” phải luôn là đề mục quán niệm của người xuất gia. Quán niệm càng sâu sắc thì chúng ta dễ dàng thấy rõ, lợi dưỡng là một phương tiện cần có để hành đạo, nhưng quyết không kẹt, không dính mắc vào nó. Hành trình của người xuất gia là xả buông, càng nhẹ chừng nào thì càng bay cao và bay xa chừng nấy. Với lợi dưỡng thì tuy có mà không, vô trước và vô nhiễm, chỉ tùy duyên mà tiếp vật để thực thi Phật sự làm lợi ích chúng sanh.

Phật tử yêu và sống như thế nào?

Mỗi người sinh ra trên đời đều đã có những số phận khác nhau do nghiệp quả chiêu cảm trong vòng luân hồi. 

Nhưng mỗi số phận đều có chung một điểm tựa tinh thần, đó là đời sống tu tập nội tâm.
Đối với những người có nhân duyên với cửa Phật thanh tịnh, họ thọ Tam Quy y dưới sự chứng minh của Tam bảo và hành trì Ngũ giới, họ rất nên khẳng định với mọi người và với cuộc sống rằng, họ là phật tử; những người con của Phật có thể khẳng định cho được đạo lý của mình đang sống và đang tôn thờ, tổ chức của chúng ta đang tham gia, lý tưởng của chúng ta đang phục vụ.

Dấu chân

Con đường lên tới đỉnh đồi tuy còn xa, nhưng nếu đi với bước chân vững vàng, đi với cái tâm yên ổn, thì đường xa đâu còn quan trọng nữa...

Thằng bé nói: “Chị ơi! Em không thể leo lên ngọn đồi này. Chắc em phải ở lại dưới chân ngọn đồi này suốt đời, thật là quá tệ!”

Nghĩ về khả tính thành Phật của mỗi người

Trong lịch sử Phật giáo, một trong những nhân vật có mối quan hệ thâm thiết với Đức Phật không chỉ một đời là Đề Bà Đạt Đa (Devadatta). Tên tuổi và hành trạng của Devadatta được các truyền thống Phật giáo quan tâm rất mực chi tiết. Vì lẽ, ở ông là sự tập hợp đầy đủ những phẩm chất của một nhân vật phản diện, tiêu biểu cho mọi cái xấu ác gần như tột cùng. Xét trong tương quan nhân quả, với những nhân bất thiện đã gây, thì con đường trở về cõi lành của Devadatta dường như bít lối. Mặc dù vậy, trong kinh Diệu pháp liên hoa (Saddharma Pundarīka Sūtra), bản dịch của ngài Cưu Ma La Thập, Devadatta được chính Đức Phật Thích Ca thọ ký thành Phật trong đời vị lai.