Báo động bệnh gia tăng do thiếu i-ốt ở Việt Nam

(Kiến Thức) - Nhân ngày Vi chất dinh dưỡng (1-2/6), GS.TS Lê Danh Tuyên, Viện trưởng Viện Dinh dưỡng cảnh báo, sau 13 năm, tình trạng thiếu i-ốt tại Việt Nam đang rất nghiêm trọng và báo động có thể gia tăng một số bệnh.

Theo Tiến sĩ Lê Danh Tuyên - Viện trưởng Viện Dinh dưỡng, Việt Nam đang nằm trong số 19 nước trên thế giới có tình trạng thiếu i-ốt tồi tệ nhất trên thế giới. Đáng nói, tình trạng này quay trở lại, sau 13 năm Việt Nam đã thanh toán được tình trạng thiếu i-ốt, với mức bao phủ muối i-ốt lên đến 93% dân số.
Kết quả điều tra của Bệnh viện Nội tiết TƯ năm 2013-2014, tỉ lệ bướu cổ ở trẻ 8-10 tuổi lên đến gần 10%, mức trung vị i-ốt niệu là 8,4mcg/dl. Đây là mức thấp nhất trong 10 năm qua. Trong khi đó, giai đoạn 2005, tỉ lệ bướu cổ của trẻ em xuống dưới 5%, mức trung vị i-ốt niệu lớn hơn hoặc bằng 10mcg/dl.
Thông tin trên báo Công an Nhân dân, gánh nặng của tình trạng thiếu hụt i-ốt từng xảy ra ở Việt Nam những năm 1990 khi 94% dân số nằm trong vùng thiếu i-ốt, tỷ lệ bướu cổ trẻ em 8 – 12 tuổi tới 22,4%.
Ở phụ nữ mang thai, thiếu i-ốt có thể dẫn đến sảy thai, thai chết lưu, đẻ non.
Ở phụ nữ mang thai, thiếu i-ốt có thể dẫn đến sảy thai, thai chết lưu, đẻ non. 
Tình trạng thiếu i-ốt ở Việt Nam mang tính toàn quốc, không kể miền núi, thành thị hay vùng đồng bằng, ven biển (trước đây, chúng ta lầm tưởng rằng bệnh bướu cổ do thiếu i-ốt chỉ thường gặp ở đồng bào miền núi cao).
Nguy cơ sảy thai do thiếu i-ốt
I-ốt là một vi chất dinh dưỡng. Cơ thể sử dụng i-ốt để tổng hợp hormone tuyến giáp, rất cần cho sự phát triển của bào thai và trẻ em. Thiếu i-ốt kéo dài có thể dẫn đến tình trạng hư hại thần kinh ở bào thai và trẻ nhỏ.
Trẻ em và phụ nữ tuổi sinh đẻ là đối tượng có nguy cơ cao bị thiếu i-ốt; hậu quả do thiếu i-ốt ở đối tượng này là rất nghiêm trọng, vì hormone tuyến giáp cần thiết giúp cho sự phát triển của bào thai và trẻ sơ sinh. Hơn nữa, sự hư hại hệ thần kinh ở bào thai và trẻ nhỏ do thiếu i-ốt nặng và kéo dài là hậu quả không thể đảo ngược được.
Ở phụ nữ mang thai, thiếu i-ốt có thể dẫn đến sảy thai, thai chết lưu, đẻ non... Với thanh niên, người lớn tác hại là bướu cổ, hư hại chức năng thần kinh, tâm thần...
Bệnh bướu cổ do thiếu i-ốt
Bệnh bướu cổ do thiếu i-ốt còn được gọi tên là bướu giáp đơn thuần, bướu giáp lành tính, bướu giáp không nhiễm độc, hoặc là bướu giáp dịch tễ, bướu giáp địa phương,…
Bướu giáp đơn thuần thường khó phát hiện vì không có nhiều triệu chứng rõ ràng.
Bướu giáp đơn thuần thường khó phát hiện vì không có nhiều triệu chứng rõ ràng.
Bướu giáp đơn thuần thường khó phát hiện vì không có nhiều triệu chứng rõ ràng, ngoài một số biểu hiện như cổ to ra, một số bệnh nhân có cảm giác nghèn nghẹn ở cổ, thường được người khác phát hiện hoặc đi khám sức khỏe.
Một số bệnh nhân có biểu hiện nhược giáp: mệt mỏi, đau cơ, táo bón, rụng tóc, nói khàn, chán ăn, giảm trí nhớ; vùng cổ có một hoặc nhiều cục bất thường di động theo nhịp nuốt; cảm giác nghẹn, tức ở cổ, nhất là khi nuốt…Bởi vậy, khi xuất hiện các triệu chứng nghi ngờ, người bệnh cần đến các Trung tâm y tế hoặc Bệnh viện chuyên khoa để khám và điều trị kịp thời.
Suy giáp bẩm sinh và bệnh đần độn (cretinism)
Suy giáp ở trẻ do thiếu i-ốt nặng nề từ trong bào thai đến lúc sinh ra và lớn lên gây nên bệnh đần độn (cretinism); trước đây thường gặp ở các dân tộc thiểu số vùng núi cao, đất thiếu i-ốt, nên còn có tên bệnh đần độn địa phương.
Suy giáp bẩm sinh là tình trạng tuyến giáp không sản xuất đủ hormone ở giai đoạn sơ sinh. Là một bệnh nội tiết xảy ra do tuyến giáp của trẻ sơ sinh không sản xuất đủ nội tiết tố đáp ứng nhu cầu cần thiết của cơ thể, do dị tật bẩm sinh không có hoặc có nhưng tuyến giáp lạc chỗ; hoặc do dị tật trong quá trình trao đổi chất tuyến giáp hoặc thiếu iốt. Cứ 3.000 đến 4.000 trẻ sinh ra sẽ có một trẻ mắc bệnh này.
Các dấu hiệu lâm sàng: Chậm phát triển tinh thần vận động; Bộ mặt đặc biệt (má phị, mắt to, mũi tẹt, lưỡi dày); chậm tăng cân; lùn không cân đối; vàng da kéo dài; táo bón kéo dài; thoát vị rốn; khóc ít và tiếng khóc nhỏ; da khô, tóc khô và gãy.
Thông thường, bé bị bệnh được mô tả là “bé sơ sinh ngoan” vì bé ít khóc và ngủ hầu hết thời gian. Bệnh phổ biến hơn ở những bé có cân nặng sơ sinh dưới 2kg hoặc trên 4,5kg.
Lấy máu gót chân của bé sơ sinh trong khoảng 38-48 tiếng sau sinh nhằm xét nghiệm phát hiện bệnh điều trị sớm đã làm giảm thiểu những em bé bị chậm phát triển về thể lực, trí tuệ và nhiều bệnh lý khác.

Ăn bao nhiêu muối, đường mỗi ngày là đủ?

Hiện nhiều người dân ăn thừa muối, đường... Hậu quả của tình trạng này có thể khiến người trong cuộc mắc nhiều bệnh nguy hiểm, thậm chí là ung thư, đột quỵ.

Cụ thể, không ít người dân ăn thừa muối từ 2 đến 3 lần so với nhu cầu khuyến nghị là 5g muối (1 thìa cà phê) hoặc 8g bột canh (1,5 thìa cà phê), 25ml nước mắm, 35ml xì dầu/ngày. Trong khi đó, ăn thừa muối làm tăng nguy cơ tăng huyết áp, tai biến mạch máu não, nhồi máu cơ tim, ung thư dạ dày, loãng xương, sỏi thận…
An bao nhieu muoi, duong moi ngay la du?
Ảnh minh họa. 

Do vậy cần chú ý giảm các loại gia vị mặn chứa nhiều muối được cho vào trong quá trình nấu ăn và chế biến; hạn chế ăn các món kho, rim, rang; ăn vừa phải các thực phẩm chế biến sẵn như giò, chả, xúc xích, thịt xông khói, bim bim, các món ăn rang muối, dưa cà muối, cá khô...

Bên cạnh đó, cần hạn chế chấm nước mắm, muối, bột canh khi ăn hoặc pha loãng nước chấm. Người dân nên sử dụng muối và bột canh có i-ốt để phòng chống bướu cổ, thiểu năng trí tuệ và các rối loạn khác do thiếu i-ốt.

Cùng muối, nhiều người dân cũng lạm dụng đồ ngọt, nước ngọt nhiều đường. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn tới tình trạng béo phì và nhiều bệnh mạn tính khác như tiểu đường, tim mạch... Do vậy, cần hạn chế các loại đường, bánh kẹo, nước ngọt, các loại nước ép hoa quả công nghiệp, các loại sữa nước, sữa bột nhiều đường, cà phê tan có đường.

Thay vào đó, nên uống các loại nước quả ép tươi ít hoặc không đường, sữa không đường. Mỗi người mỗi ngày không nên ăn quá 25g đường từ tất cả nguồn thực phẩm, đồ uống, tương đương 5 thìa cà phê đường.

Mắt đầy ghèn vào buổi sáng: Dấu hiệu bệnh đừng coi thường

Mỗi sáng thức dậy, mắt của bạn dường như không thể mở ra vì ghèn quá nhiều? Đây là một dấu hiệu cảnh báo bệnh cần phải đi khám ngay trước khi quá muộn.

Ghèn xuất hiện nhiều bất thường là một dấu hiệu cảnh báo bệnh cần phải chú ý - Ảnh minh họa: Internet. 
Ghèn hay còn gọi là gỉ mắt được hình thành khi bạn ngủ bởi lúc này nhiệt độ cơ thể chúng ta giảm xuống khiến meibum tại đây cô đặc lại. Chất meibum này giúp giữ ẩm cho đôi mắt tránh tình trạng bị rát, cộm hay khó nhắm hoặc chớp.