Luật nhân quả đối với người "ác khẩu"

Đức Phật dạy, Ác khẩu hay còn gọi là ác ngữ là một trong bốn điều bất thiện thuộc về lời nói (vọng ngữ, ỷ ngữ, lưỡng thiệt, ác khẩu).

Nó sẽ gây ra nhiều hối hận cho con người trong cuộc sống sau khi nói ra.
Tác dụng của lời nói có thể xoa dịu nỗi đau trong lòng, làm vơi đi những tâm trạng buồn; lời nói nhã nhặn, lời khuyến tấn đúng thời, đúng lúc có thể làm thay đổi suy nghĩ tiêu cực của đối phương và từ đó dần dần sẽ làm thay đổi những hành vi, những việc làm bất thiện.
Ngược lại, lời nói cũng có thể đưa con người vào vực thẳm của tội lỗi, có thể khiến người ta ăn năn hối hận cả cuộc đời, trong đó lời nói ác ngữ, ác khẩu là một trong những nguyên nhân đưa đến hậu quả như thế.
Hãy thận trọng với ác nghiệp
Điều này rất dễ thấy thông qua tính chất quan hệ nhân quả trong Phật giáo.
Ác khẩu, ác ngữ là lời nói thâm độc, thô bạo, mắng nhiếc, chửi rủa,… là những lời lẽ thiếu văn minh, đạo đức trong giao tiếp.
Ác khẩu có thể khiến người ta ăn năn hối hận cả cuộc đời.
 Ác khẩu có thể khiến người ta ăn năn hối hận cả cuộc đời.
Đương nhiên, nói nặng lời, hoặc lớn tiếng trong chừng mực nào đó không phải là ác ngữ, nhất là trong quá trình giáo dục con cái của cha mẹ, giáo huấn học trò của thầy cô.
Trong kinh Phật có bài học đạo lý rằng: Có người nghe Đức Phật rất từ bi, rất có đạo hạnh, nên cố ý đến mắng nhiếc Đức Phật. Nhưng khi chửi mắng, Đức Phật đều lặng thinh, chẳng đáp.
Khi người ấy mắng nhiếc xong, Phật hỏi: "Ông đem lễ vật tặng người khác, người ấy không nhận thì lễ vật ấy cuối cùng sẽ thuộc về ai?" Người ấy đáp rằng, lễ vật vẫn là của ông ta.
Đức Phật liền nói "Nay ông mắng nhiếc ta, nhưng ta không nhận, ông tự mang vào thân ông vậy. Cũng giống như âm vang là do nương theo tiếng mà có, như bóng do hình mà thành, cuối cùng vẫn chẳng tránh được. Hãy thận trọng, chớ nói lời mắng nhiếc, ác ngữ!”
Theo đạo lý nhân quả trong Phật giáo, thì một việc làm, một lời nói, một ý niệm suy nghĩ của thân, miệng, ý dù đó là thiện hay bất thiện đều đưa đến kết quả nhất định của nó.
Có những hành vi, lời nói, suy nghĩ được lập đi lập lại nhiều lần thì kết quả hiện hành rõ ràng hơn, chi phối mạnh mẽ hơn trong đời sống thường ngày của cá nhân đó.
Cho nên, có câu sách tấn rằng "Phàm làm việc gì, suy nghĩ đến hậu quả của nó", hay "Bồ tát sợ nhân, chúng sanh sợ quả", tức là người trí, người giác ngộ thì làm việc gì, nói lời gì, nghĩ điều gì luôn luôn cẩn trọng, cân nhắc đến hậu quả của nó.
Còn người mê thì cứ làm, cứ nói, cứ hành xử theo cảm tính, theo suy nghĩ cá nhân của mình cho thỏa dạ hả lòng, khi hậu quả đến thì lo âu sợ hải.
Hậu quả khó lường…
Như vậy, với những người thường dùng lời nói thâm độc, thô bạo, mắng nhiếc, chửi rủa,… trong cuộc sống hàng ngày của họ, trước hết, chính bản thân của người ấy đã thể hiện lối sống thiếu phẩm chất, đạo đức, văn minh trong lời nói, trong giao tiếp và dẫn đến hạ thấp uy tín của tự thân, những người xung quanh sẽ dần dần xa lánh họ.
Những người thân của họ ít nhiều cũng ảnh hưởng lây bởi những lời ác ngữ này, nếu là bậc cha mẹ thường dùng ác ngữ đối với con cái thì những đứa trẻ này sẽ tiếp nhận và trong quá trình trưởng thành cũng sẽ ảnh hưởng những tính chất bất thiện này.
Một đứa bé được nuôi dưỡng và giáo dục trong môi trường có nhiều tố chất bất thiện thì khi trưởng thành chắn chắn sẽ ảnh hưởng ít nhiều về tố chất đó.
Còn nếu là con cái thường nói những lời thô bạo, thâm độc,… thì chắc chắn cha mẹ, thầy cô giáo không khỏi nao lòng.
Nhất là, trong xã hội hiện nay, một số bạn trẻ online trên mạng xã hội facebook, twitter,… thường dùng những lời lẽ ác ngữ, thô tục, xúc phạm đến người khác không phải là không có.
Có thể các bạn cho rằng những lời nói này không chỉ một người nào cụ thể, không trực tiếp một ai, thì sẽ không sợ nguy hại.
Nhưng thực tế rất nguy hiểm, không chỉ viết những lời ác ngữ, mà thậm chí chỉ cần nhấp chuột tán thành, ủng hộ những lời ác ngữ đều nguy hiểm cả, vì nhiều lần làm như vậy chính không ai biết xấu hổ, không ai kiểm soát, không ai khuyến tấn nên lâu ngày dài tháng sẽ trở thành một thói quen.
Mà Phật giáo gọi điều này là nghiệp, mà đã là nghiệp thì nó sẽ chi phối đối với đời sống của tự thân người đó. Vì thế, một lời ác khẩu, ác ngữ đều có thể đưa đến hậu quả khó lường.

Những chuyện về thiện ác nghiệp báo và đầu thai kiếp sau

Phật dạy: "Phàm làm người ở cõi đời, sinh tử đều do nhân duyên. Do nhiều nhân duyên tạo ra gốc rễ tội lỗi..."

1. Giết lợn bị đọa vào địa ngục A Tỳ

Lặng ngắm kỳ quan Phật giáo cổ xưa bậc nhất TG

(Kiến Thức) - Quần thể tượng Phật Gal Viharaya là tác phẩm đầu tiên khắc họa thành công nhất những thời điểm có ý nghĩa quan trọng trong cuộc đời Đức Phật. 

Tọa lạc tại cố đô Polonnaruwa của Sri Lanka, Gal Viharaya được coi là một trong những kỳ quan Phật giáo cổ xưa và độc đáo bậc nhất thế giới.
Tọa lạc tại cố đô Polonnaruwa của Sri Lanka, Gal Viharaya được coi là một trong những kỳ quan Phật giáo cổ xưa và độc đáo bậc nhất thế giới.

Ai là Phật tử đầu tiên ở Việt Nam ?

Đó chính là Chử Đồng Tử, một trong Tứ Bất tử có ảnh hưởng sâu sắc trong văn hóa và tín ngưỡng Việt Nam. 

Truyền thuyết Chử Đồng Tử
Theo truyền thuyết dân gian, Chử Đồng Tử sinh ra tại làng Chử Xá, thuộc Gia Lâm (Hà Nội) ngày nay. Gia cảnh bần hàn, Chử Đồng Tử và cha là Chử Cù Vân chỉ có độc một cái khố phải thay nhau mặc. Tới khi sắp qua đời do bệnh nặng, cha của Chử Đồng Tử mới bảo con rằng hãy chôn ông khỏa thân, giữ lấy cái khố mà mặc. Tuy nhiên, Chử Đồng Tử vì hiếu thuận nên đã chôn khố theo cha, còn bản thân thì chịu cảnh trần truồng khổ sở.
Chử Đồng Tử kiếm sống bằng cách đêm câu cá, ngày dầm nửa người dưới nước, đến gần thuyền bán cá hoặc xin ăn. Ngày nọ, Chử Đồng Tử gặp Tiên Dung là con gái cưng của Hùng Vương thứ 18 trong một bối cảnh đậm chất "duyên phận" và hai người kết thành vợ chồng. Hôn sự giữa hai người làm Hùng Vương nổi giận, ngài bèn đuổi vợ chồng Chử Đồng Tử ra khỏi Văn Lang.
Chử Đồng Tử và Tiên Dung (Ảnh minh họa)
 Chử Đồng Tử và Tiên Dung (Ảnh minh họa)
Hai người cùng nhau lập chợ buôn bán để mưu sinh. Khu chợ này thường được thương nhân nước ngoài lui tới, Chử Đồng Tử theo khách buôn đi khắp ngược xuôi. Một lần đi buôn trên biển, Chử Đồng Tử gặp vị tu sĩ tên Phật Quang và được Phật Quang truyền đạo. Khi trở về, Chử Đồng Tử lại truyền đạo cho Tiên Dung và hai vợ chồng cùng nhau giác ngộ.
Chử Đồng Tử là Phật tử đầu tiên tại Việt Nam