6 "thần khí" uy lực nhất trong Tam Quốc

Tam Quốc là thời kỳ phân tranh giữa 3 thế lực lớn là Ngụy - Thục - Ngô. Đây là một trong những thời kỳ phân tranh quyết liệt nhất và cũng là nơi sản sinh ra nhiều nhân tài bậc nhất trong lịch sử Trung Hoa

Thanh Long Uyển Đao

Đây là vũ khí gắn liền với Quan Vũ (Quan Vân Trường). Thanh Long Uyển Nguyệt Đao rất nặng nên nó thường được dùng để luyện tập cánh tay, không dùng trong chiến đấu. Nhưng trong Tam Quốc, Quan Vũ dùng vũ khí này chiến đấu khiến vạn người không địch nổi.

Theo nhiều tài liệu ghi chép lại, Thanh Long Đao của Quan Vũ nặng 82 cân thời xưa (khoảng 50kg ngày nay). Thanh Long Uyển Nguyệt Đao đã được thợ rèn đệ nhất thiên hạ làm ra và chỉ được rèn vào ngày trăng tròn. Khi Thanh Long Uyển Nguyệt Đao vừa được rèn xong, bỗng nhiên gió bão bắt đầu nổi lên, sau đó từ trên không trung rơi xuống 1780 giọt mưa máu. Người ta cho rằng, đó chính là máu của Thanh Long (con rồng màu xanh). Vì lý do đó mà nó đã được gọi với cái tên Thanh Long Uyển Nguyệt Đao. Thanh đao này cũng đã lấy mạng 1780 người.

6

Trong Tam Quốc, Quan Vũ cùng chiếc đao này đã lấy mạng không ít võ tướng. Sau khi Quan Vũ chết, Thanh Long Uyển Nguyệt Đao đã bị một tướng của Đông Ngô là Phan Chương chiếm đoạt. Cuối cùng Quan Hưng con của Quân Vân Trường đã giết Phan Chương để trả thù cho cha và lấy lại Thanh Long Uyển Nguyệt Đao này. Thanh Long Uyển Nguyệt Đao và Quan Vũ đã trở thành một biểu tượng không thể tách rời.

Phương Thiên Họa Kích

Hình ảnh Phương Thiên Họa Kích gắn liền với mãnh tướng Lữ Bố. Phương Thiên Họa Kích cùng ngựa Xích Thố giúp Lữ Bố trở nên cực kỳ dũng mãnh, một mình đọ tài ngang sức với ba anh em Lưu - Quan - Trương.

“Phương thiên” nghĩa là “nghiêng/ lệch sang một bên”, chứng tỏ vũ khí của Lã Bố chỉ có một mảnh thép chứ không phải hai. Riêng chữ “hoạ kích” – cây kích đem lại tai họa - lại được sử dụng như một cách để nhấn mạnh tính huỷ diệt và đáng sợ của vũ khí này.

6

Kích vốn là một vũ khí khó sử dụng. Với trọng lượng nặng hơn các vũ khí khác, cộng thêm sở hữu nhiều đòn thế đa dạng và phức tạp, kích đòi hỏi người sử dụng phải có một sức khoẻ và bản lĩnh “tương đối”. Theo Tam Quốc diễn nghĩa, Lữ Bố 11 tuổi đã đánh bại đại lực sĩ giỏi nhất của dòng tộc, sau này lớn lên gặp tướng thì trảm tướng, đối đầu với vạn quân không hề mảy may run sợ. Tác giả khắc hoạ hình ảnh Lữ Bố gắn liền với Phương Thiên Họa Kích, hẳn cũng có “ý đồ” làm nổi bật tài năng của vị danh tướng này.

6

Cặp bài trùng Phương Thiên Họa Kích và Lữ Bố trở thành một trong những điểm nhấn quan trọng nhất của Tam Quốc diễn nghĩa. Không chỉ là một nhân vật, một vũ khí và một câu chuyện, đó còn là những bài học sâu sắc đối với người đọc về sự trung thành và chính trực. Có thể, Phương Thiên Họa Kích chưa từng tồn tại ngoài đời thật, thế nhưng xét về mặt văn học, Phương Thiên Họa Kích là mảnh ghép hoàn hảo cho Lữ Bố và Tam Quốc diễn nghĩa.

Bát Xà Mâu

Bát Xà Mâu là binh khí được Trương Phi sử dụng, theo mô tả đây là cây mâu dài, lưỡi được uốn lượn như thân rắn, đầu được mài sắc. Bát Xà Mâu thường được sử dụng để đâm, chém ngang với tốc độ cao. Ngoài ra còn được sử dụng để bổ và trượt dọc thân vũ khí của đối thủ nhằm buộc đối thủ phải buông vũ khí.

Người sử dụng Bát Xà Mâu phải kết hợp được sức mạnh và sự nhanh nhẹn, khả năng ứng biến trong mỗi trận đấu tốt.Với Bát Xà Mâu trong tay, Trương Phi đã tung hoành khắp các chiến địa nổi tiếng nhất thời Tam Quốc, cùng Lưu Bị đánh quân Khăn Vàng, đụng độ Lã Bố ở Hổ Lao quan, đánh Tào Tháo ở Xích Bích, vào Tây Xuyên diệt Lưu Chương… Trương Phi và Bát Xà Mâu, cùng con ngựa “Ô vân đạp tuyết” là một trong những sự kết hợp mạnh mẽ nhất, thể hiện đầy đủ dũng khí của một tướng quân thời cổ đại.

Tam Xích Thanh Phong

Thanh kiếm này gắn liền với hình ảnh Lưu Bị. Trong võ lâm, để sử dụng được song kiếm nhất định không phải người tầm thường. Kiếm hay gươm là một loại vũ khí lạnh cấu tạo từ một thanh kim loại dài được mài bén dùng để đâm, chém trong tác chiến. Dài hơn dao, hẹp, nhẹ và mỏng hơn đao, kiếm được sử dụng trong nhiều cuộc chiến trên khắp thế giới từ thời thượng cổ.

6

Sở hữu Tam Xích Thanh Phong, với hai tay hai kiếm, Lưu Bị đã từng đấu với Lã Bố trong trận ở Hổ Lao Quan, đã từng đánh với đô đốc Hạ Hầu Đôn ở gò Bác Vọng. Trước những đối thủ mạnh và rất mạnh như thế, đôi song kiếm này đã hoàn thành xuất sắc vai trò bảo vệ chủ nhân của mình.

Tam Tiêm Thương

Tam Tiêm Thương được mô phỏng theo loại binh khí trong truyền thuyết của Nhị Lang Thần do Giao Long ba đầu hóa thành. Cây thương này phần đầu được làm to, mài sắc hai cạnh, đầu của thương được chẻ làm ba. Với thiết kế như vậy người sử dụng có thể bổ mạnh uy hiếp đối thủ, móc, kẹp vũ khí và có thể đâm làm đối thủ ngã ngựa. Trong Tam Quốc, Tam Tiêm Thương được Khương Duy sử dụng.

6

Một người nữa cũng sử dụng thương vô cùng điêu luyện trên chiến trường chính là một trong ngũ hổ tướng của Tây Thục: Triệu Tử Long. Với cây thương của mình, Tử Long đã từng khiến Tào Tháo giật mình sửng sốt. Trong trận Đương Dương, Trường Bản, Tử Long đã dùng cây thương này để cứu ấu chúa A Đẩu, con trai Lưu Bị và lấy mạnghàng chục viên tướng của Tào Tháo. Trong trận mạc, Tử Long chính là một viên tướng uy dũng vô cùng.

Đàn Thất Huyền Cầm

Trong “Tam Quốc Diễn Nghĩa”, chiếc đàn Thất Huyền Cầm không phải là một loại vũ khí gây sát thương trực tiếp nhưng có khả năng đánh đuổi cả một đội quân hùng hậu. Khi Gia Cát Lượng bị Tư Mã Ý vây ở Tây Thành, trong tình cảnh ngàn cân treo sợi tóc, ông đã mang cây đàn ấy lên ngồi trên mặt thành bình thản gảy. Khi nghe âm luật và nhìn phong thái bình tĩnh, với tiếng đàn “truyền giao cách cảm” hàm chứa thông điệp đầy ẩn ý của Khổng Minh, Tư Mã Ý hiểu ý liền vội rời đi.

Thực ra Tư Mã Ý sợ có quân mai phục trong thành chỉ là một lý do. Nguyên nhân đằng sau là Tư Mã Ý hiểu chỉ khi Gia Cát Lượng còn thì mình cũng mới bình an vô sự. Một khi Gia Cát Lượng không còn, Tư Mã Ý cũng sớm bị hoàng đế nước Ngụy trừ bỏ.

6

Với Gia Cát Lượng mà nói, đây cũng là một kiểu ‘chiến tranh tâm lý’ cực kỳ đặc biệt. Người ta nói, tiếng đàn của Gia Cát Lượng có sức mạnh của chục vạn hùng binh là như vậy.

Tiếng đàn đã hoàn thành xuất sắc vai trò của mình như một loại ‘vũ khí’ lợi hại, xưa nay ít thấy. Chỉ có các bậc cao nhân mới có thể sử dụng chúng và ‘đối thủ’ cũng nhất định là phải ở cùng một cảnh giới thật cao mới có thể hiểu nổi.

Mưu thâm kế hiểm thời Tam quốc

Thời kỳ Tam quốc đầy rẫy những mưu kế, trong đó, giả bệnh cũng là một trong các mưu kế được dùng và mang lại hiệu quả cho người chủ mưu.

Nói đến mưu giả bệnh thời Tam quốc, chắc hẳn nhiều người sẽ nghĩ ngay đến Tư Mã Ý. Trước sự kiện binh biến lăng Cao Bình, khi Tư Mã Ý đối mặt với thế lực lớn mạnh của Tào Sảng, chỉ có thể chọn cách giả bệnh, để tránh chịu bức áp hơn nữa từ phía Tào Sảng.

Dĩ nhiên là sau khi Tào Sảng buông lỏng cảnh giác với ông thì Tư Mã Ý cũng chẳng cần giả bệnh tật nữa và nhân cơ hội đó phát động binh biến lăng Cao Bình, giết được Đại tướng quân của Tào Ngụy là Tào Sảng.

Tư Mã Ý và âm mưu giả bệnh đoạt thiên hạ

Tư Mã Ý (sinh năm 179, mất ngày 7/ 9/251), tự là Trọng Đạt, người ở phường Hiếu Kính, huyện Ôn, quận Hà Nội (nay là huyện Ôn, thị trấn Tiêu Tác, tỉnh Hà Nam).

Thời Tam quốc ông là danh tướng, quyền thần nhà Ngụy và cũng là một trong những người đặt nền móng cho vương triều Tây Tấn.

Tư Mã Ý từ nhỏ đã thông minh mưu trí, học rộng biết nhiều, thông thạo Nho giáo.

Bởi vì nhà Hán bị Tào Tháo khống chế trong tay nên Tư Mã Ý từng từ chối chức quan mà Tào Tháo ban cho, nhưng đến năm Kiến An thứ 23 tức năm 208, sau khi Tào Tháo đảm đương vị trí Thừa tướng, đã cưỡng chế chiêu mộ Tư Mã Ý làm Văn học duyện.

Bởi vì Tư Mã Ý từng ủng hộ Tào Tháo xưng đế cho nên dần dần về sau đã chiếm được tin tưởng của Tào Tháo. Sau khi Tào Tháo tự xưng là Ngụy vương, phong Tư Mã Ý làm Thái tử trung thứ tử để phò trợ Tào Phi, giúp Tào Phi giành được thắng lợi trong trận chiến tranh vị trí kế vị.

Đến khi Tào Phi lâm chung, lệnh cho Tư Mã Ý và Tào Chân trở thành Phù chính đại thần, phò tá cho Ngụy Minh Đế Tào Duệ.

Muu tham ke hiem thoi Tam quoc

Hình ảnh nhân vật Tư Mã Ý trên phim.

Khi Ngụy Minh Đế lên ngôi, Tư Mã Ý lần lượt nắm các vị trí quan trọng như Phủ quân Đại tướng quân, Đại tướng quân hay Thái úy… Trước khi Ngụy Minh Đế Tào Duệ lâm chung, ông đã gửi gắm hoàng đế còn nhỏ tuổi là Tào Phương cho Tư Mã Ý và Tào Sảng.

Sau khi Tào Phương kế vị, Tư Mã Ý chịu sự bài xích của Tào Sảng, phải thăng chức lên vị trí Thái phó không có thực quyền.

Tháng 4 năm Chính Thủy thứ tám (tức năm 247), phu nhân của Tư Mã Ý là Trương thị qua đời. Tào Sảng dùng mưu kế của tâm phúc là Hà Yến, Đặng Dương cùng Đinh Mật giam lỏng Quách Thái hậu vào Vĩnh Ninh cung, bấy giờ anh em Tào Sảng đã "nắm trong tay triều đình, thống lĩnh cấm quân".

Vào tháng 5 cùng năm ấy, Tư Mã Ý giả vờ sinh bệnh, không lo việc trong triều. Mặc dù Tư Mã Ý và Tào Sảng đều là đại thần được Tào Duệ gửi gắm phò tá cho vua, nhưng Tào Sảng là tông thất nhà Tào Ngụy, trong tay lại nắm binh quyền, cho nên nếu không nắm chắc phần thắng trong tay, Tư Mã Ý sẽ không muốn đối chọi trực tiếp với Tào Sảng.

Đồng thời, bấy giờ tuổi tác Tư Mã Ý đã cao, nếu dùng cách giả bệnh để Tào Sảng buông lỏng cảnh giác quả thực là một phương án hợp lí.

Tháng 3 năm Chính Thủy thứ chín (tức năm 248), Thái giám Trương Đương đem Trương Tài nhân, Hà Tài nhân cùng 11 người khác tặng cho Tào Sảng, Tào Sảng cùng Hà Yến nhân cơ hội này để câu kết cùng Trương Đương, âm mưu phá hoại giang sơn.

Tào Sảng cùng vây cánh của mình lo sợ Tư Mã Ý chỉ đang giả vờ bệnh, cho nên mùa đông năm ấy, phủ doãn Hà Nam là Lý Thắng đến Kinh Châu nhậm chức Thứ sử, trước khi đi có đến thăm Tư Mã Ý.

Tư Mã Ý giả bộ bệnh nặng, Lí Thắng gặp xong liền về báo với Tào Sảng rằng: "Tư Mã Ý giờ chỉ còn giống như bộ xương khô, bệnh liệt giường không dậy nổi, chỉ còn lại chút hơi tàn, chứ hồn cũng lìa khỏi xác rồi, không đáng để ngài lo lắng."

Muu tham ke hiem thoi Tam quoc-Hinh-2

Tư Mã Ý đã dùng kế giả bệnh để Tào Sảng lơ là phòng bị.

Về sau lại nói: "Thái phó không thể nào khỏe lại được, khiến người ta tiếc thương". Sau khi nhận được tin tức của Lý Thắng, Tào Sảng cùng đồng đảng cũng dần không còn phòng bị Tư Mã Ý nữa.

Tháng Giêng năm Gia Bình nguyên niên (tức năm 249), Hoàng đế Tào Phương rời Lạc Dương đến Lăng Cao Bình bái tế Ngụy Minh Đế, theo cùng có Đại tướng quân Tào Sảng, Trung lệnh quân Tào Hi, Vũ vệ tướng quân Tào Huấn.

Nếu như lúc trước Tư Mã Ý không giả bệnh nặng, thì Tào Sảng chắc chắn sẽ không mang theo hết tâm phúc của mình theo cùng, mà sẽ để lại vài tướng lĩnh trấn thủ Lạc Dương. Nhưng cũng chính vì Tư Mã Ý không còn đáng lo nữa, cho nên Tào Sảng đã không có sắp xếp phòng ngừa thích hợp.

Chính vì thế, Tư Mã Ý đã nhân cơ hội này, bẩm tấu với Quách Thái hậu, xin phế bỏ anh em Tào Sảng.

Bấy giờ, Tư Mã Sư là Trung hộ quân, dẫn quân đóng ở phủ Tư Mã, khống chế đô thành Lạc Dương. Còn Tư Mã Ý thì đích thân cùng Thái úy Tưởng Tế dẫn theo binh mã đi nghênh đón Hoàng đế, đóng quân tại Phù Kiều, Lạc Thủy, cử người dâng tấu chương kể rõ tội trạng của Tào Sảng.

Cuối cùng, Tào Sảng chấp nhận không chống trả, nhờ đó mà Tư Mã Ý giành được chiến thắng trận binh biến lăng Cao Bình. Về sau, ông không chỉ nắm được quyền hành trong triều mà hơn thế còn tạo cơ sở vững chắc để con cháu nhà Tư Mã xây dựng nên vương triều Tây Tấn. 

Vì sao hậu duệ của Lưu Bị lại kém xa so với con của Tào Tháo?

Có nhiều ý kiến cho rằng, việc con cái của Lưu Bị thua xa so với hậu duệ của Tào Tháo là điều không hề khó hiểu và bắt nguồn từ những nguyên nhân dưới đây.

Vào cuối thời Đông Hán và thời Tam Quốc, thiên hạ rơi vào cảnh đại loạn, hào kiệt, anh hùng nổi dậy khắp nơi, mà Lưu Bị và Tào Tháo vốn được xem là hai nhân vật kiêu hùng nổi bật của giai đoạn lịch sử thời bấy giờ.

Thế nhưng không khó để nhận thấy, nếu so sánh về hậu duệ, con cái của Tào Tháo lại giỏi giang và vượt xa hơn hẳn những người con của Lưu Bị.