Xin vơi bớt si mê

Xin nguyện cầu cho tôi, cho cuộc đời từng ngày, từng ngày vơi nhẹ bớt si mê.. trở về cùng nguồn Tâm trong sáng... 

Chiều nay ngang qua dòng sông Ni Liên chợt thấy hai con lạc đà đang nhai lại thức ăn và chờ chủ đến dắt về, hình ảnh con lạc đà gợi cho tôi thầm nhớ lại lời Đức Phật dạy rằng: “Cái khổ của con lừa, con lạc đà chở nặng, cái khổ của những kẻ trôi lăn trong sinh tử luân hồi chưa gọi là khổ. Ngu si không nhận chân được thực tướng, không biết được hướng đi ấy mới gọi là khổ”. (Trong cuốn Sa Di Luật Giải)
Ảnh minh họa.
Ảnh minh họa. 
Tại sao Ðức Phật nói cái chở nặng của con lừa, con lạc đà và những kẻ trôi lăn trong sinh tử chưa gọi là khổ? Là bởi vì con lừa, con lạc đà và những kẻ trôi lăn trong sinh tử chỉ khổ một đời thôi, còn đối với những người ngu si không nhận chân được thực tướng, không biết được hướng đi thì họ sẽ bị trôi lăn mãi mãi trong vòng sinh tử luân hồi mà không khi nào ra khỏi. Nói như nhà thơ Vũ Hoàng Chương:
''Lang thang từ độ luân hồi ,
U minh nẻo trước xa xôi dặm về''.
Xin nguyện cầu cho tôi, cho cuộc đời từng ngày, từng ngày vơi nhẹ bớt si mê... trở về cùng nguồn Tâm trong sáng.

Cách thức tụng kinh bộ

Sang ngày hôm sau, muốn tụng “tiếp theo” ngày hôm trước thì vẫn bắt đầu theo các bước như lễ Phật, tán hương, phát nguyện, khai kinh.

HỎI: Tôi là Phật tử, tu tập và tụng niệm mỗi ngày hai thời, buổi đêm tụng kinh A Di Đà, buổi sáng tụng kinh Vô lượng thọ. Vì kinh Vô lượng thọ khá dài mà thời khóa thì có hạn nên phải chia thành nhiều ngày. Có điều tôi hơi lúng túng là khi hết giờ ngày thứ nhất thì “kết thúc” thế nào và từ ngày thứ hai trở đi nên “tiếp theo” bằng cách sao? Còn nữa, có người bạn khuyên khi thỉnh kinh về để trì tụng xong nên làm “một cái lễ để trả lễ cho bà con cô bác”. Xin quý Báo cho biết ý kiến về vấn đề này.

Hạnh phúc tùy cách nhìn

Mỗi người hiện hữu giữa cuộc đời này, đều có hoàn cảnh sống khác nhau; người thì của cải dư thừa, ngược lại có kẻ nghèo khổ thiếu thốn mọi bề.

Tuy nhiên, về phương diện tinh thần, dù người ta có nhiều tiền bạc đến mấy chăng nữa, nhưng không có cái nhìn sâu sắc vào đời sống thực tế, cũng khó tìm ra được hạnh phúc trọn vẹn. Còn đối với những người tuy đời sống lam lũ, nhưng tâm hồn luôn thanh thản và trong sáng thì vẫn có thể thừa hưởng được những cái hay, cái đẹp vốn có trong cuộc đời này. Vì thế, hạnh phúc hay khổ đau còn phải tùy thuộc vào cách nhìn của mỗi người!

Lương Vũ Đế: Hoàng đế mê Phật hơn chính sự

- Suốt chiều dài lịch sử Trung Hoa có hơn 500 bậc đế vương, tuổi thọ trung bình của họ là 39 tuổi. Trên 50 tuổi có 60 hoàng đế, 60 tuổi trở lên có 38 vị, 70 tuổi trở lên có 10 vị. Thọ 80 tuổi trở lên chỉ có 5 người, trong đó có Lương Vũ Đế, thọ 86 tuổi, chỉ thua hoàng đế Càn Long.

Hình minh họa Lương Vũ Đế (ảnh tư liệu).
Hình vẽ minh họa Lương Vũ Đế (ảnh tư liệu).
Là hoàng đế nhưng Lương Vũ Đế rất cần kiệm, thường mặc áo vải, đi giầy cỏ, đầu quấn khăn vuông, một chiếc mũ đội đến 3 năm, tấm trải giường dùng đến 2 năm mới thay. Là vua trăm họ nhưng Lương Vũ Đế sống như một vị tăng tu khổ hạnh. Mỗi ngày lo việc chính sự đến canh 4 mới nghỉ, tay chân đều nứt nẻ. Lại rất say mê thư pháp, công phu rất cao được bao đời truyền tụng. Từ năm 50 tuổi, Lương Vũ Đế đã bỏ rượu hoàn toàn, không gần nữ sắc, thường nói rằng: "Trẫm từ khi 50 tuổi đã không còn gần nữ nhân nữa", có lẽ nhờ đó mà được trường thọ.

Lương Vũ Đế (464 - 549) tên thật là Tiêu Diễn, tự là Thúc Đạt, vốn là cháu đời thứ 25 của Tướng quốc Tiêu Hà triều Hán. Vị hoàng đế này có nhiều điều rất lạ: Là hoàng đế nhưng thích làm hòa thượng, ăn chay trường, xa lánh nữ sắc và... chết đói trong cung.

Hội kiến Đạt Ma tổ sư

Năm Phổ Thông thứ 8 (527), Sơ tổ Thiền tông Bồ Đề Đạt Ma (Bodhidharma) từ Thiên Trúc theo đường biển sang Nam Hải (Quảng Châu, Quảng Đông ngày nay). Lương Vũ Đế nghe danh rất ngưỡng mộ bèn cho sứ đến thỉnh về Kinh đô Kim Lăng (Nam Kinh).

Khi gặp mặt, Lương Vũ Đế có vẻ đắc ý, hỏi Đạt Ma rằng: "Trẫm từ khi lên ngôi đến nay chăm lo xây chùa độ tăng vô số, in kinh hành thiện không ngừng, xin hỏi như vậy được công đức gì?". Đạt Ma tổ sư đáp: "Chẳng có công đức!".

Câu trả lời của Đạt Ma như gáo nước lạnh tát vào mặt, Lương Vũ Đế hỏi tại sao? Tổ đáp: "Là vì hữu lậu. Tuy xem ra như có công đức nhưng không phải công đức chân thật".

Lại hỏi: "Như thế nào là công đức chân thật?". Tổ đáp: "Chứng ngộ thể tính của trí tuệ, thực tướng vô tướng, bản lai vốn không tịch, viên minh, vi diệu. Công đức tự tính không thể lấy cách của thế tục mà cầu được".

Đế hỏi: "Như thế nào là Thánh đế đệ nhất nghĩa?". Tổ đáp: "Tuyệt nhiên vô thánh". Lại hỏi: "Vậy thì ai đang đối với trẫm đây?". Đạt Ma đáp: "Không biết".

Lương Vũ Đế không lĩnh hội được gì cả, tỏ vẻ không vui. Đạt Ma biết cơ duyên không hợp nên từ giã đi về phía bắc đến Thiếu Lâm Tự ở Tung Sơn diện bích truyền giáo.

Đạt Ma nói công đức là công đức tự tính, vốn luôn đầy đủ, không phải vì bố thí mà công đức tăng, không bố thí thì công đức giảm. Thiện căn là nhân tính, làm việc thiện là việc tất yếu phải làm, sao lại cầu công đức?

Tôn chỉ Thiền tông là "Trực chỉ nhân tâm, kiến tính thành Phật", không trong không ngoài, không người không ta, không phàm không thánh, nên Đạt Ma nói "Tuyệt nhiên vô thánh", điều này Lương Vũ Đế không ngộ ra nên không thể chấp nhận.

Lương Vũ Đế hội kiến Đạt Ma.
Lương Vũ Đế hội kiến Đạt Ma.

Sùng bái Phật giáo

Từ thế kỷ thứ IV, V, Phật giáo phát triển rất mạnh ở Trung Hoa. Lương Vũ Đế cực lực tôn sùng Phật giáo, khuyến khích xuất gia, tạo lập chùa chiền, xem đây là phương thức "tạo phước báo" để ngôi vị được trường cửu. Chính Lương Vũ Đế là người đề xướng "ăn chay trường" trong triều đình, sau đó ăn chay trở thành "đại giới" bắt buộc trong Phật giáo đại thừa ở Trung Hoa và những nước bị Hán hóa.

Tương truyền, có lần Lương Vũ Đế tìm đến một vị cao tăng, hỏi rằng: "Ta nay được làm hoàng đế, nhờ hòa thượng xem tiền kiếp ta đã làm được việc tốt gì mà tích được phước lớn thế này".

Vị cao tăng nhập định xong, nói: "Kiếp trước của hoàng thượng là một tiều phu. Một lần đang đốn củi trên núi thì gặp mưa lớn, người bèn chạy vào một ngôi miếu hoang đổ nát trú mưa. Cảnh tượng trong miếu hoang tàn, tượng Phật bị gió tạt mưa sa rất thê lương, hoàng thượng thấy cảnh ấy bất giác phát thiện tâm, nghĩ cách che chở cho tượng Phật. Người lúc ấy rất nghèo, bèn dùng cái nón cỏ duy nhất của mình đặt lên đầu tượng Phật để che mưa. Nhờ phước báo đó mà người được làm hoàng đế kiếp này".

Lương Vũ Đế nghe xong rất vui, nói rằng: "Một chiếc nón cỏ có thể được làm hoàng đế, vậy ta cho toàn dân tạo chùa miếu, đúc Phật tượng thật nhiều, như vậy thì sẽ giữ được ngôi vị vĩnh viễn". Bèn lệnh cho toàn quốc tập trung nhân lực, tài lực xây dựng rất nhiều chùa chiền. 3 năm sau Lương Vũ Đế tìm lại vị cao tăng, hỏi: "Ta làm như vậy có thể giữ vững được sơn hà?". Tăng đáp: "Không thể, không chỉ không được lâu dài mà còn chóng mất". Đế hỏi tại sao, tăng đáp rằng: "Hành động của người trong tiền kiếp là do vô vi vô cầu mà làm nên được đại phước, còn lần này là do cưỡng cầu mà làm nên vô phước".

4 lần xuất gia

Sau khi lên ngôi, Lương Vũ Đế lập điện Chính Giác trong cung, thỉnh đại pháp sư Tuệ Ước làm nghi thức thụ giới cho mình, sau đó lại còn 4 lần xuất gia vào chùa.

Lần thứ nhất là ngày 28 tháng 3 năm Phổ Thông thứ 8 (527), Lương Vũ Đế lên chùa Đồng Thái xuất gia đầu Phật. Làm hòa thượng được 4 ngày thì triều đình cử người đến đón về. Theo thông lệ, hòa thượng hoàn tục phải bỏ một số tiền cho chùa gọi là "chuộc người", dù hoàng đế cũng không ngoại lệ.

Lần thứ hai là ngày 15 tháng 9 năm Đại Thông thứ 3 (529), Lương Vũ Đế cởi hoàng bào, đắp tăng y, xuất gia ở chùa Đồng Thái, giảng kinh Niết Bàn, được 12 ngày thì triều thần chuộc về.

Lần thứ ba là ngày 10 tháng 4 năm Đại Đồng thứ 25 (546), 1 tháng sau thì được chuộc về. Ngay hôm đón về, một tòa tháp trong chùa Đồng Thái bỗng nhiên bốc cháy, Lương Vũ Đế nói đó là do ma quỷ làm, hạ chỉ rằng: "Đạo càng cao thì ma lại càng thịnh. Cần phải tạo tháp cho thật cao mới có thể trấn áp được tà khí của ma quỷ".

Lần thứ tư là ngày 3 tháng 3 năm Thái Thanh nguyên niên (457), lúc này Lương Vũ Đế đã 84 tuổi nhưng vẫn kiên quyết xuất gia ở chùa Đồng Thái, được 37 ngày thì triều thần đến chuộc về. Lương Vũ Đế 4 lần xuất gia, tổng số tiền triều đình phải nộp cho chùa để chuộc vị "hoàng đế bồ tát" này lên đến 400 triệu tiền.

Hoàng đế chết đói trong cung

Nếu không bị loạn Hầu Cảnh làm cho chết đói thì Lương Vũ Đế chắc chắn còn sống lâu hơn nữa. Hầu Cảnh vốn là tướng Đông Ngụy, năm 547 đầu hàng Lương Vũ Đế. Do Lương Vũ Đế chỉ lo Phật sự, bỏ bê quốc sự, năm 548 Hầu Cảnh cấu kết với Tiêu Chính Đức dấy binh làm phản, vây phủ Đài Thành, Kim Lăng.

Tháng 2 năm 549, Lương Vũ Đế trong Đài Thành binh tận lương tuyệt, vô cùng nguy khốn. Hoàng đế phải trèo lên nóc hoàng cung bắt trứng chim, chim non mà ăn, không lâu sau thì chẳng còn gì ăn được nữa, chết đói ở Đài Thành.

Lương Vũ Đế qua đời, triều Nam Lương mất, 480 ngôi chùa do hoàng đế tạo dựng trở nên hoang phế điêu tàn. Thi sĩ Đỗ Mục đời Đường khi đi qua Giang Nam đã cám cảnh viết: "Oanh kêu mười dặm biếc hồng/ Bên thôn quán rượu gió tung bay cờ/Bốn trăm chùa cũ triều xưa/Lâu đài bao chốn gió mưa mịt mùng".

Bí quyết dưỡng sinhi

Lương Vũ Đế sống đến 86 tuổi mà vẫn khoẻ mạnh, sáng suốt là nhờ nhất tâm thành ý, một lòng hướng Phật, không hề lay chuyển. Lục Tổ Tuệ Năng trong "Đàn kinh" nói: Thân an thì đạo thịnh; An uống phải tiết lượng, Thường vui ở sự nhàn, Tâm tĩnh vui tinh tấn, Đó là "chư Phật giáo". Từ sau khi thụ giới, Lương Vũ Đế giữ gìn giới luật rất nghiêm như hòa thượng xuất gia, đặc biệt là chấp hành "trì ngọ", mỗi ngày chỉ ăn một bữa cơm chay vào chính ngọ, thức ăn chính là rau đậu mà thôi. Nhiều khi có việc triều chính bận rộn, lỡ quá giờ ngọ (từ 11 đến 1 giờ trưa) là nhịn luôn. Đạo sĩ Tào Đình Đống đời Thanh viết trong "Lão Lão hằng ngôn" rằng: "Trước giờ ngọ là sinh khí, sau giờ ngọ là tử khí. Họ Thích (chỉ bên Phật) quá giờ ngọ không ăn là để tránh tử khí vậy !".
Hàn Phong