Những sức mạnh ở đời

Chúng ta đều biết, người ta sống ở đời mỗi người đều có một thế mạnh, sở trường và sở đoản khác nhau.

Biết khai thác và phát huy thế mạnh đồng thời biết khắc phục và tránh né những thế yếu của mình là nền tảng của mọi thành công. Người chín chắn, nhiều trải nghiệm thì không bao giờ chủ quan mà luôn quan sát kỹ càng để tìm ra những điểm mạnh yếu của đối tác nhằm ứng xử phù hợp, lợi mình lợi người.
Ảnh minh họa.
 Ảnh minh họa.
Theo sự chỉ dạy của Thế Tôn, các vị quốc vương quyền bính trong tay, những vị Thánh A-la-hán và chư Phật thành tựu đại giải thoát có sức mạnh thì đã đành, nhưng đứa trẻ nít ngây ngô, chị em phụ nữ chân yếu tay mềm, những người tu buông xả sự đời cũng có sức mạnh riêng của họ. Đó là sáu sức mạnh ở đời.
“Một thời, Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc. Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Có sáu sức mạnh ở đời. Thế nào là sáu? Con nít lấy kêu khóc làm sức mạnh, muốn đòi gì, trước hết khóc; đàn bà lấy sân giận làm sức mạnh, nương vào sân giận rồi sau mới nói; Sa-môn, Bà-la-môn dùng nhẫn làm sức mạnh, thường nghĩ thấp mình đối với người, rồi sau bày tỏ; quốc vương dùng kiêu ngạo làm sức mạnh, lấy hào thế này để tự biểu lộ; nhưng A-la-hán lấy tinh chuyên làm sức mạnh để tự trình bày; chư Phật Thế Tôn thành tựu đại từ bi, lấy đại bi làm sức mạnh để lợi ích rộng rãi cho chúng sanh.
Ðó là, này Tỳ-kheo! Có sáu sức mạnh ở đời. Thế nên, các Tỳ-kheo! Nên nhớ tu hành sức đại từ bi này. Như thế, các Tỳ-kheo, nên học điều này.
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm”.
(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập II, phẩm Lực [1],
VNCPHVN ấn hành, 1998, tr.482)
Thật rõ ràng, không gì có thể ngăn được người mẹ chạy đến bên con, khi con khóc. Đối với người mẹ thì tiếng con khóc là mệnh lệnh uy quyền nhất thế gian. Và con trẻ, theo suy nghĩ của chúng ta là chưa biết gì, nhưng nó đã biết phát huy sức mạnh của tiếng khóc để khiến mẹ đáp ứng những nhu cầu mà nó đang cần.
Xưa nay người ta thường nói chị em phụ nữ là phái yếu, nhưng thực tế thì chẳng yếu chút nào. Có lẽ do nghiệp lực nên cánh đàn ông đích thực đều sợ chị em giận, đều lo khi chị em hờn. Vì vậy mà tự ngàn xưa cho đến ngày nay, những giọt nước mắt vô tình đã làm nên tội, khuynh đảo biết bao chuyện thế gian. Nên cũng không có gì là lạ khi chị em thường “nương vào sân giận rồi sau mới nói” và cách thể hiện này hầu như lúc nào cũng rất lợi hại.
Các vị Sa-môn hay người tu nói chung, nguyện dấn thân trên lộ trình hướng nội cô độc và phiêu du, lấy sự nhẫn nhịn và chịu đựng để vượt qua các chướng ngại. Điều quan trọng nhất ở đây, theo Thế Tôn, người tu phải luôn tự thấy mình nhỏ bé, là bần tăng, là hành khất để khiêm cung và nhã nhặn trong ứng xử với đời. Chính sự kham nhẫn và khiêm hạ mới là sức mạnh đích thực của người tu. Nhân đây bộc lộ ra một điều, người tu nào thích thể hiện uy quyền và chức phận xênh xang là tự mình phơi bày ra thế yếu, là rơi vào sở đoản chứ không phải sở trường.
Sức mạnh của vua chúa thì quá rõ ràng, ai có tướng sĩ và binh mã mạnh hơn thì chiến thắng. Chư Phật và các bậc Thánh La-hán cũng tinh chuyên, lấy tâm đại bi mà làm lợi ích cho vạn loại hữu tình. Thế Tôn đã khuyến tấn hàng đệ tử của Ngài phát nguyện dấn thân; lấy từ bi, đem lòng yêu thương chân thật để làm hành trang vào đời, giúp người. Đó cũng chính là sức mạnh của những người tu Phật cần thể hiện xuyên suốt lộ trình tự độ và độ tha.

Thần chú Mật tông có sức mạnh không?

Các câu chú mà Phật giáo dùng đều có danh hiệu Phật và Bồ Tát, đều có lời quy y Tam Bảo ở trong đó.

Nhưng những câu chú đó đều dịch âm từ chữ Phạn, chứ không phải dịch ra nghĩa chữ Hán.

Có công dụng gia trì hay không?

Nguyên nhân đức Phật chế Giới Luật

"Giới là lộ trình sống thực của chân lý, được kết tinh từ nhân cách phẩm chất đạo đức, nhằm nuôi dưỡng lớn công hạnh tự lợi, lợi tha, một yếu tố tác thành Phật quả..."

"...Giới cũng chính là cơ năng nòng cốt để xây dựng trật tự kỷ cương, một con người toàn diện trong sáng, nâng cao trí thức, phát triển trí tuệ”.
Đức Thế Tôn đã là bậc Chánh Đẳng Chánh Giác làm bất cứ việc gì cũng cẩn thận chu đáo, không sơ sót dù là một chuyện nhỏ. Trong 12 năm đầu khi giáo đoàn thành lập chúng tăng hầu hết phần đông là căn cơ trình độ giáo pháp cao siêu là những bậc thánh A- la- hán, thành phần tu tập đoạn dứt lậu hoặc. Những vị căn cơ còn thấp kém chỉ nghe đức Thế Tôn khai thị vài lần liền chứng ngộ. Vì thế nếp sống của chư Tăng thuở ấy hoàn toàn thanh tịnh. Tuy đức Thế Tôn chưa chế Giới luật nhưng Giới vẫn có, chỉ giới hạn được trình bày dưới dạng những hình thức đơn giản tổng quát về mặt hộ trì các căn.

Vì sao trên bàn Thờ cúng Phật không thể thiếu ly nước?

Phật giáo không chỉ là danh tự, tạo tượng nghệ thuật cũng là một cách biểu pháp, cho nên tất cả cách thức, không cách nào không phải là biểu pháp, ngay cả kiến trúc cũng không ngoại lệ.

Đồ vật cúng đều là biểu pháp. Chúng ta trước Phật thắp hương, hương là đại biểu cho cái gì? Trong bài tán hương “Giới định chân hương”, chân hương không phải chỉ cho hương mà bạn thắp, nhìn thấy hương đó liền phải biết: “Ta phải tu giới, phải tu định, phải tu huệ”.
Giới định huệ là hương trong chân tâm tự tánh của ta; dạy bạn khi nghe đến hương, nhìn thấy hương, thì phải nghĩ đến “ta phải tu giới định huệ, ta phải đoạn tham sân si”. Đồ cúng dường cho Phật, quan trọng nhất và đơn giản nhất là cúng dường một ly nước. Những thứ khác như hoa hương, thứ gì cũng không có, hương không thắp cũng không sao, nhưng nước thì nhất định phải cúng một ly.