Kỳ 3: Ngọa Vân - thánh địa của thiền phái Trúc Lâm

Ngọa Vân là nơi kết thúc trọn vẹn quá trình tu luyện và thành Phật của Trần Nhân Tông nên đã trở thành thánh địa của Phật giáo Trúc Lâm.

Sau khi đã hoàn thành việc bình Bắc, định Nam, yên việc nước việc nhà, tháng 8 năm 1299, từ phủ Thiên Trường, ông xuất gia vào núi Yên Tử tu hành khổ hạnh, lấy hiệu là Hương Vân Đại Đầu Đà và xưng là Trúc Lâm Đại Sĩ.
Chương III. NGỌA VÂN - NƠI ĐỨC VUA TRẦN NHÂN TÔNG TU HÀNH VÀ HÓA PHẬT
1. Ngọa Vân - thánh địa của thiền phái Trúc Lâm
Sau hơn một năm nhường ngôi cho con lên làm Thái Thượng hoàng, tháng 7 năm 1294 Trần Nhân Tông xuất gia tu tập ở hành cung Vũ Lâm (nay thuộc xã Ninh Hải, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình), sở dĩ nói Thượng hoàng Trần Nhân Tông xuất gia tu tập bởi, trên thực tế cho đến trước năm 1299 khi Ngài xuất gia tu hành khổ hạnh tại am Tử Tiêu, núi Yên Tử thì Ngài vẫn giám sát việc nước, thân chinh đi đánh Ai Lao xâm lấn biên giới phía Tây, theo dõi “uốn nắn” vua con Trần Anh Tông giúp vua làm quen và trưởng thành trong việc quản lý và lãnh đạo đất nước.
Trích đoạn thư họa Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn chi đồ.
 Trích đoạn thư họa Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn chi đồ.
Sau khi đã hoàn thành việc bình Bắc, định Nam, yên việc nước việc nhà, vua con Trần Anh Tông đã tự mình gánh vác việc quản lý và lãnh đạo đất nước, tháng 8 năm 1299, từ phủ Thiên Trường, ông xuất gia vào núi Yên Tử tu hành khổ hạnh, lấy hiệu là Hương Vân Đại Đầu Đà và xưng là Trúc Lâm Đại Sĩ.
Sau thời gian tu hành khổ hạnh tại Yên Tử, Ngài xuống núi, đi khắp xóm làng, dạy dân chúng phá bỏ dâm từ và thực hành thập thiện, ban thuốc chữa bệnh cho nhân dân. Ngài tìm người nối dòng pháp, gặp được Pháp Loa và trao truyền Y, Bát cho Pháp Loa. Tháng 5, năm Đinh Mùi, niên hiệu Hưng Long thứ 15 (1307), Điều Ngự lên tu tại một am nhỏ trên đỉnh Ngọa Vân.
Đỉnh Ngọa Vân đọc theo âm Hán – Việt là Ngọa Vân Phong (卧 雲 峯) vì vậy nó còn được gọi tắt là Vân Phong (雲 峯).
Bia Trùng tu Ngọa Vân tự tức là bia ghi chép việc trùng tu chùa Ngọa Vân được dựng vào năm Vĩnh Thịnh thứ 3 (1707) đời vua Lê Dụ Tông cho biết, Ngọa Vân là một đỉnh núi nằm trên núi Bảo Đài (Bảo Đài sơn). Trong những trước tác còn lại của Phật Hoàng Trần Nhân Tông, ta thấy có bài thơ Đăng Bảo Đài sơn tức là lên núi Bảo Đài, giọng thơ mang đậm chất Thiền.
Lên núi Bảo Đài
Đất vắng đài thêm cổ,
Ngày qua xuân chửa nồng.
Gần xa mây núi ngất,
Nắng rợp ngõ hoa thông.
Muôn việc nước trôi nước,
Trăm năm lòng nhủ lòng.
Tựa lan, nâng sáo ngọc,
Đầy ngực ánh trăng trong (5)
Các tài liệu văn bia và đặc biệt là các nghiên cứu khảo cổ học tại Yên Tử và Đông Triều đã chứng minh, núi Bảo Đài thuộc dãy Yên Tử, xưa thuộc An Sinh, thời Trần là đất thang mộc của An Sinh Vương Trần Liễu, thời Lê – Nguyễn thuộc xã An Sinh, huyện Đông Triều, phủ Kinh Môn, đạo Hải Dương nay thuộc hai xã An Sinh và Bình Khê, huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh (6).
Tháng 10 năm 1308, sau khi xuống núi thăm chị là công chúa Thiên Thụy, Trúc Lâm Đại Sĩ quay về núi và nhờ hai đệ tử của mình là Tử Doanh và Hoàng Trung đưa lên am Ngọa Vân rồi cho người đi mời đệ tử là Bảo Sát đến để dặn dò. Giờ Tý, ngày 1 tháng 11, lúc nửa đêm, sao trời tỏ rạng, Điều Ngự nói: “Đây là lúc ta đi”, nói xong liền nằm theo thế sư tử, an nhiên viên tịch” (7).
Sau khi Trúc Lâm Đại Sĩ nhập Niết bàn, Bảo Sát theo di chúc, hỏa thiêu Ngài ngay tại am Ngọa Vân. “Khi thiêu hương lạ bay xa, nhạc trời vang hư không, mây năm sắc phủ trên giàn hỏa” (8), Pháp Loa dùng nước thơm tưới lên hỏa đàn thu ngọc cốt và hàng nghìn viên xá lợi9. Vua Trần Anh Tông tôn hiệu Ngài là: Đại Thánh Trần Triều Trúc Lâm Đầu Đà Tịnh Tuệ Giác Hoàng Điều Ngự Tổ Phật”.
Sau khi hỏa thiêu nhục thể của Phật Hoàng, ngọc cốt và xá lợi được đưa xuống thuyền vua, rước về kinh đô tạm lưu giữ tại bảo tháp chùa Tư Phúc trong Cấm thành Thăng Long. Tháng 9 năm 1310, ngọc cốt được đưa về an trí tại lăng Quy Đức (hay còn gọi là Đức Lăng) phủ Long Hưng (nay thuộc thôn Tam Đường, xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà, Thái Bình). Xá lợi được phân phát và tôn trí ở nhiều nơi (10). Tại Ngọa Vân, Pháp Loa cho xây dựng Phật Hoàng tháp để lưu giữ một phần xá lợi của Ngài, tảng đá nơi ngài nhập diệt được lưu giữ lại. Như vậy, hành trình tu luyện, nhập diệt theo thế sư tử nằm, phân phát xá lợi đi khắp nơi của Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông là một chuỗi công việc mô phỏng quá trình tu luyện, viên tịch và phân phát xá lợi của đức Phật Thích-Ca-mâu-ni. Trong chuỗi sự kiện đó thì Yên Tử là nơi Phật Hoàng tu luyện, giảng pháp, độ tăng và Ngọa Vân là nơi kết thúc trọn vẹn quá trình tu luyện và thành Phật của Ngài, Ngọa Vân vì thế đã trở thành thánh địa của Phật giáo Trúc Lâm.
Sau khi Phật hoàng hóa Phật, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của thiền phái Trúc Lâm, thánh địa Ngọa Vân đã được Pháp Loa, người nối dòng của Tông phái Trúc Lâm cho xây dựng và mở rộng thành một quần thể lớn. Dưới sự hỗ trợ của Thượng hoàng Trần Anh Tông, Pháp Loa đã xây dựng Ngọa Vân từ chỗ chỉ là một am nhỏ nơi Phật Hoàng tu luyện, trở thành một quần thể chùa tháp.
Các nghiên cứu khảo cổ học ở đây đã chứng minh, vào giai đoạn nửa đầu thế kỷ XIV Ngọa Vân đã trở thành một quần thể lớn gồm nhiều cụm/điểm công trình được xây dựng bao quanh đỉnh Ngọa Vân ở phía nam của núi Bảo Đài (nay thường gọi là núi Vây Rồng) gồm: cụm Am – Tháp; chùa Chính, cụm Thông Đàn – Đô Kiệu; Khu Ngọa Vân 1 và 2. Khu chùa chính được xây mới và mở rộng ở phía ngoài, khu am được mở rộng thành khu am - tháp, và là nơi thờ đệ nhất tổ Phật Hoàng Trần Nhân Tông và tháp Phật Hoàng nơi lưu giữ xá lợi của Ngài.
Thế kỷ XV, sau khi cuộc kháng chiến chống quân Minh thắng lợi, Lê Lợi lên ngôi, nhà Lê được thành lập lấy Nho giáo là tư tưởng chính thống, Phật giáo vì thế bị suy yếu, chùa chiền, am tháp vốn đã bị hao mòn bởi chiến tranh nay lại ít được quan tâm sửa chữa, xây dựng như trước đây. Ngọa Vân mặc dù là nơi thánh địa cũng không tránh khỏi cảnh hoang tàn đổ nát. Bia Trùng tu chùa Ngọa Vân mô tả sau 400 năm kể từ ngày Phật Hoàng đến đây kết duyên tu luyện, Ngọa Vân đã bị thời gian và sự khắc nghiệt của tự nhiên làm cho phai mờ dần trong lòng người. Mặc dù văn bia không nói rõ về tình trạng của các kiến trúc ở Ngọa Vân nhưng qua các ghi chép và các tài liệu khảo cổ học chúng ta có thể hình dung, đến đầu thế kỷ XVIII thì hầu hết các công trình tại Ngọa Vân được xây dựng trước đó đã bị đổ nát hoặc phá hủy.
Am Ngọa Vân. Ảnh: Giang Vĩnh Thịnh.
 Am Ngọa Vân. Ảnh: Giang Vĩnh Thịnh.
Bước sang thế kỷ XVIII, trong xu thế phục hưng của Phật giáo nói chung, Thiền phái Trúc Lâm nói riêng, Ngọa Vân với tư cách là Thánh địa đã ngay lập tức được chú ý trùng tu tôn tạo và mở rộng.
Năm 1707, nhờ có sự phát tâm công đức của tín chủ Diệu Tín - một người dạy hát ở cung Thị Nội và bà Dương Thị Trinh - đệ nhất cung tần của ty Thị Nội, nhà sư Đức Hưng đã cho trùng tu và xây dựng “gác chuông và tăng phòng, tổng cộng là 25 gian, làm hai tòa bảo điện, dựng một tấm bia đá, làm thêm Kim am, Hương Vân am, Giải Thoát am, tất thảy đều kiên cố, thâm nghiêm” (11).
Các kết quả nghiên cứu khảo cổ học tại đây đã cho thấy nếu như thời Trần, quần thể chùa tháp Ngọa Vân chỉ tập trung phát triển ở xung quanh đỉnh Ngọa Vân thì đến thời Lê Trung hưng quần thể này được mở rộng về phía Đông của núi Bảo Đài với một cụm chùa lớn được xây dựng tại khu vực Đá Chồng. Như vậy có thể thấy, sau một thời gian bị “quên lãng”, thế kỷ XVIII Ngọa Vân được hồi sinh trên nền tảng các giá trị của giai đoạn trước, đồng thời phát triển và mở rộng.
Dấu ấn các công trình kiến trúc được xây dựng tại Ngọa Vân dưới thời Lê Trung hưng còn lại khá nhiều và chính nhờ các dấu vết này mà ngày nay chúng ta hiểu và khẳng định được Ngọa Vân là một quần thể chùa tháp lớn nằm trên dãy Yên Tử, đồng thời giúp chúng ta xác định được không gian Yên Tử xưa không chỉ bó hẹp trong khu vực danh thắng Yên Tử ngày nay mà Yên Tử của Trúc Lâm là một không gian rộng lớn kéo dài từ Uông Bí, qua Đông Triều đến Chí Linh với một hệ thống chùa tháp kết nối chặt chẽ với nhau tạo thành một trung tâm Phật giáo lớn suốt từ thời Trần đến thời Lê Trung hưng. Số phận của Trung tâm này gắn liền với những bước thăng trầm của lịch sử Phật giáo Việt Nam.
Còn nữa...
Tác giả: Thạc sĩ Nguyễn Văn Anh Trung tâm Nghiên cứu Kinh thành, Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam
Trích trong cuốn Am Ngọa Vân, tác giả Nguyễn Văn Anh, NXB Văn hóa Thông tin năm 2013
------------------------------------------
5. Bản dịch của Ngô Tất Tố.
6. Xem thêm Nguyễn Văn Anh (2008). Am Ngọa Vân qua các bằng chứng khảo cổ học. T/c Nghiên cứu Phật học, Số 5/2008.
7. Về ngày mất của Phật Hoàng Trần Nhân Tông các tài liệu ghi chép có chỗ khác nhau, Đại Việt Sử ký toàn thư thì chép là ngày 3 tháng 11 năm 1308. Sách Tam tổ thực lục thì chép “Ngày 1 tháng 11, lúc nửa đêm, sao trời tỏ rạng, Điều Ngự hỏi “Bây giờ là mấy giờ, Bảo Sát đáp, giờ Tý, Điều Ngự nói, “Đây là lúc ta đi”, nói xong liền nằm theo thế sư tử, an nhiên viên tịch”. Giờ Tý là từ 23 giờ ngày mồng 1 đến 01 giờ ngày mồng 2. Như vậy, có thể khi tin tức được chuyển về đến Kinh đô Thăng Long thì là ngày mồng 3 nên Sử quan chép là ngày mồng 3. Tam tổ thực lục là sách ghi chép hành trạng của tam tổ Trúc Lâm, đặc biệt là phần chép về tổ thứ nhất và tổ thứ hai của sách này giống như nội dung trên bia Thanh Mai. Bia Thanh Mai dựng năm Đại Trị thứ năm (1362) là bia ghi chép hành trạng của Pháp Loa, tổ thứ hai của Thiền phái Trúc Lâm, người đã trực tiếp tổ chức hỏa thiêu nhục thể của Phật Hoàng tại Ngọa Vân nên rất đáng tin cậy, vì thế chúng tôi theo Tam tổ thực lục. Giáo hội Phật giáo Việt Nam và các chùa theo phái Trúc Lâm cũng lấy ngày 01/11 Âm lịch hàng năm là ngày giờ của Phật Hoàng Trần Nhân Tông.
8. Tam Tổ thực lục, sđd
9. Ngọc cốt là phần xương cốt còn lại sau khi hỏa thiêu của cao tăng Phật giáo. Xá lỵ là những hạt nhỏ có dạng viên tròn lấp lánh trông giống ngọc trai hay pha lê được tìm thấy trong tro hỏa táng của một số vị cao tăng Phật giáo.
10. Xem thêm Nguyễn Văn Anh, Nơi lưu giữ xá lỵ của Phật Hoàng Trần Nhân Tông, T/c Nghiên cứu Phật học, số 2/2013, tr.30-32.
11. Bia Trùng tu chùa Ngọa Vân

Chùa nào ở Hà Nội thường xuyên tổ chức lễ cưới?

Ngoài những nhà hàng, khách sạn sang trọng tổ chức lễ cưới, ngày nay không ít bạn trẻ đã tìm đến cửa Phật để làm lễ Hằng thuận.

Lễ Hằng thuận hay còn gọi là lễ cưới tại chùa theo nghi thức Phật giáo dưới sự chứng minh của đức Phật và chư tăng ni, phật tử, đặc biệt là sự chúc phúc của 2 bên gia đình cho đôi tân lang, tân nương…

Một lễ hằng thuận được tổ chức tại chùa Đình Quán (huyện Từ Liêm, Tp.Hà Nội).
 Một lễ hằng thuận được tổ chức tại chùa Đình Quán (huyện Từ Liêm, Tp.Hà Nội).
Nghi thức tổ chức lễ Hằng thuận bao gồm 15 mục như: dâng hương, lạy Bụt, khai thị, giao bái, trao nhẫn, nghe giảng pháp về đạo vợ chồng, nói lời ước nguyện... Tuỳ theo nhu cầu tâm linh hay hoàn cảnh kinh tế, thời gian mức độ tổ chức…mà đôi tân lang tân nương có thể tiến hành đủ các mục hoặc có thể giảm bớt các nghi thức này.
Có thể nhận thấy, việc tổ chức đám cưới ở chùa đã kết hợp được những nghi thức của nhà phật với nét đẹp của đám cưới truyền thống. Nó là cầu nối giữa đạo và đời, nó hướng cho các bạn trẻ tới một gia đình tâm linh, gìn giữ đạo đức truyền thống của dân tộc, hạnh phúc hài hoà về mọi mặt. Đồng thời nó cũng tạo ra bản sắc riêng trong phong tục cưới hỏi của dân tộc.
Vậy ở Hà Nội có những ngôi chùa nào thường xuyên tổ chức lễ Hằng thuận? Ban biên tập trang phatgiao.org.vn xin gợi ý một số chùa như sau:
1. Thiền viện Sùng Phúc
- Trụ trì: Đại đức Thích Tâm Thuần
- Địa chỉ: Tổ 10, phường Cự Khối, Quận Long Biên
- Điện Thoại: 04.38751302 – 22155177
- Mobile: 0986.708951 – 0982.868859
2. Chùa Bằng A
- Trụ trì: Hòa thượng Thích Bảo Nghiêm
- Địa chỉ: Phường Hoàng Liệt, Quận Hoàng Mai
- Điện thoại: 04.3688.4354
3. Chùa Lý Triều Quốc Sư
- Trụ trì: Hòa thượng Thích Bảo Nghiêm
- Địa chỉ: Số 50 Lý Quốc Sư, Quận Hoàn Kiếm
- Điện thoại: (04)38261010
4. Chùa Vạn Phúc
- Trụ trì: Đại đức Thích Chiếu Tuệ
- Địa chỉ: Thôn Đoài, xã Phù Lỗ, huyện Sóc Sơn
- Điện thoại: 091 434 8787
5. Chùa Đình Quán
- Trụ trì: Sư thầy Thích Tịnh Quán
- Địa chỉ: Thôn Đình Quán, xã Phú Diễn, huyện Từ Liêm
- Điện thoại: 090 954 8898
Người khởi xướng ra nghi lễ Hằng Thuận là ông đồ Nam Tử, ông tên thật là Nguyễn Trọng Thuật (1883-1940) quê ở Hải Dương. Ông đã đưa ra quan điểm “Đạo Phật nên được dấn thân và hoà hợp vào quần chúng”. Thấm nhuần tư tưởng đó, năm 1930 một trí thức đã tổ chức đám cưới tại chùa Từ Đàm – Huế cho con gái mình.
Hưởng ứng lời kêu gọi của ông đồ Nam Tử, năm 1937 Hoà thượng Thích Thiện Hoa đã dùng 2 chữ Hằng Thuận (với ý nghĩa nói luôn luôn hoà thuận) để chỉ việc kết hôn trước của phật. Trong chùa, chư tăng không gọi đám cưới là “Lễ cưới hỏi” mà gọi là “Lễ Hằng thuận”, điều đặc biệt trong buổi lễ phải có một nhà sư chủ trì làm chủ lễ.

Ấn tượng đền thờ xây từ triệu lon bia

Với kỹ thuật tinh xảo của người thợ Thái Lan, ngôi chùa bằng bia khiến nhiều du khách ngỡ ngàng.

Bất cứ ai theo đạo Phật đều biết rằng say rượu là một trong những giới luật bị cấm nghiêm ngặt của người nhà chùa. Tuy nhiên chẳng có giới luật nào cấm xây dựng chùa chiền từ vỏ lon bia, và một ngôi chùa tương tự đã ra đời ở ngay xứ Phật Thái Lan.
 Bất cứ ai theo đạo Phật đều biết rằng say rượu là một trong những giới luật bị cấm nghiêm ngặt của người nhà chùa. Tuy nhiên chẳng có giới luật nào cấm xây dựng chùa chiền từ vỏ lon bia, và một ngôi chùa tương tự đã ra đời ở ngay xứ Phật Thái Lan.
Chùa Wat Lan Kuad nằm ở phía Đông Bắc Thái Lan, được xây dựng từ hơn 1,5 triệu chai bia tái chế, vì vậy còn được gọi với cái tên: “ngôi chùa triệu chiếc chai”. Tất cả chi tiết trong chùa từ tường, trần, các phòng đều được làm từ vỏ lon cũ.
Chùa Wat Lan Kuad nằm ở phía Đông Bắc Thái Lan, được xây dựng từ hơn 1,5 triệu chai bia tái chế, vì vậy còn được gọi với cái tên: “ngôi chùa triệu chiếc chai”. Tất cả chi tiết trong chùa từ tường, trần, các phòng đều được làm từ vỏ lon cũ. 

Kỳ 2: Am Ngọa Vân

Tư tưởng Phật giáo của Trần Nhân Tông là: hãy vui đạo giữa đời (cư trần lạc đạo), tư tưởng đó cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị.

Không chỉ là một vị tướng tài mà Trần Nhân Tông còn là một nhà tư tưởng, một nhà thơ và đặc biệt ông chính là người sáng lập Thiền phái Trúc Lâm, một tông phái Phật giáo đậm chất văn hóa Đại Việt.
Chương II
TRẦN NHÂN TÔNG, ANH HÙNG DÂN TỘC, DANH NHÂN VĂN HÓA
Trần Nhân Tông là vị vua thứ 3 của nhà Trần, tên húy là Khâm, ông sinh ngày 11 tháng 11 năm Nguyên Phong thứ 8 (1258). Năm mười sáu tuổi (1274) được sắc phong làm Hoàng thái tử, kết hôn cùng con gái trưởng của Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn. Ngày 22 tháng 10 năm 1278 được vua cha Trần Thánh Tông nhường ngôi khi mới 21 tuổi, ông làm vua 14 năm (1278-1293).
Năm 1293, ở tuổi 35, ông nhường ngôi cho con, lui về Thiên Trường làm Thái Thượng hoàng 1, xuất gia tu tập tại hành cung Vũ Lâm (Ninh Bình). Năm 1299, khi vua Trần Anh Tông đã đủ trưởng thành, Thượng hoàng Trần Nhân Tông chính thức xuất gia tu hành khổ hạnh tại đỉnh Tử Tiêu núi Yên Tử, lấy hiệu là Hương Vân Đại Đầu Đà và tự xưng là Trúc Lâm Đại Sĩ.
Trong lịch sử dân tộc, vua Trần Nhân Tông là một trong những anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa tiêu biểu. Vốn là người thông minh trời phú cộng với tính ham học, lại thừa hưởng một nền giáo dục hết sức rộng rãi với tinh thần cởi mở; kết hợp kiến thức khoa học với văn chương; quân sự với âm nhạc vì thế, ngay từ khi còn trẻ ông đã học thông tam giáo và hiểu sâu Phật điển. Ngay cả thiên văn, lịch số, binh pháp, y thuật, âm luật, không thứ gì là không mau chóng nắm bắt một cách sâu sắc.
Nhờ có đủ tầm vóc về bản lĩnh và trí tuệ như vậy nên mặc dù vừa lên ngôi, vua Trần Nhân Tông đã lãnh đạo quân dân Đại Việt vượt qua tình thế hết sức hiểm nghèo có nguy cơ đe dọa sự tồn vong của quốc gia, dân tộc, đó là việc quân Nguyên Mông ráo riết chuẩn bị xâm lược Đại Việt lần thứ hai.
Bằng bản lĩnh và trí tuệ của mình, ông đã khéo léo thi hành các chính sách ngoại giao mềm dẻo nhằm tạo cơ hội cho quân dân Đại Việt có thời gian củng cố lực lượng, chuẩn bị khí giới đồng thời khẩn trương tiến hành một loạt biện pháp nhằm nâng cao tiềm lực chính trị, kinh tế, quân sự, vv… để chuẩn bị đối phó với cuộc chiến tranh xâm lược mà ông biết chắc chắn rằng nó sẽ diễn ra.
Nhờ có sự chuẩn bị chu đáo, trên dưới một lòng, anh em hòa thuận, ông đã lãnh đạo nhân dân Đại Việt đánh bại hai cuộc tấn công xâm chiếm của Nguyên Mông, cuộc xâm lược lần thứ 2 (1285) và cuộc xâm lược lần thứ 3 (1288) kết thúc bằng chiến thắng trên sông Bạch Đằng, một trong những chiến thắng vĩ đại nhất trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, để cho “non sông ngàn thủơ vững âu vàng”2. Dấu ấn của chiến thắng quân Nguyên Mông lần thứ 3 trên sông Bạch Đằng hiện còn lại trên đất Yên Đức của quê hương Đông Triều và những bãi cọc tại Yên Hưng (Quảng Ninh).
Chiến thắng trên sông Bạch Đằng (1288), tranh sơn dầu.
 Chiến thắng trên sông Bạch Đằng (1288), tranh sơn dầu.
Mặc dù quân dân Đại Việt đã giành thắng lợi vẻ vang, bảo vệ vững chắc độc lập của dân tộc song một thực tế rõ ràng là, sau chiến tranh không ít làng xóm, gia đình bị li tán, mùa màng bị tàn phá. Trước tình hình đó, chỉ mấy ngày sau chiến thắng, khi về Thăng Long vua Trần Nhân Tông đã ban chiếu, tuyên bố lệnh đại xá cho thiên hạ và tha tô thuế, tạp dịch cho những vùng đã trải qua chiến tranh, các vùng khác tùy vào mức độ bị tàn phá mà giảm.
Tiếp sau đó vua cho ban hành hàng loạt chính sách nhằm khoan thư sức dân, thúc đẩy sản xuất, tiến hành khen thưởng những người có công lao trong hai cuộc chiến, đồng thời tùy vào nặng nhẹ mà xử lý với những người mắc tội, để những người lầm lỡ hàng giặc khi giặc tới xâm lược được yên tâm sống, làm việc và có cơ hội chuộc lại lỗi lầm bằng việc lao động, sản xuất và cống hiến. Vua Trần Nhân Tông đã cho đốt toàn bộ giấy tờ, biểu, tấu mà họ đã gửi xin hàng giặc.
Song song với việc giải quyết chính sách hậu chiến, việc tổ chức bộ máy nhà nước theo hướng phi quân sự bằng việc “chọn các quan văn chia đi cai trị các lộ” cũng được triển khai để thực hiện việc cai trị đất nước theo pháp luật. Từ đó tạo điều kiện cho người dân mở mang sản xuất, phát triển kinh tế. Với hàng loạt chính sách có tính sách lược và chiến lược được ban hành như vậy, Trần Nhân Tông đã đưa Đại Việt nhanh chóng “bước ra khỏi cuộc chiến”, các mặt đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội phát triển, nhân dân được hưởng cuộc sống thái bình thịnh trị. Có được những kết quả đó là nhờ tài năng và công đức của vua Trần Nhân Tông.
Bên cạnh công cuộc tái thiết đời sống vật chất, tạo bộ mặt tươi đẹp cho đất nước và con người, thì việc xây dựng một đời sống tinh thần lành mạnh cho người dân cũng được vua Trần Nhân Tông quan tâm một cách sâu sắc. Ông tổ chức và gây dựng một quá khứ thần thánh cho dân tộc bằng việc phong thần cho những người có công với dân với nước như Phù Đổng Thiên Vương, Sĩ Nhiếp, Triệu Quang Phục, Lý Phật Tử, Phùng Hưng, Lý Thường Kiệt v.v.. Trong hai đợt phong thưởng cho những người có chiến công trong các cuộc chiến tranh vệ quốc năm 1285 và 1288, vua Trần Nhân Tông đã không quên tỏ lòng biết ơn những vị anh hùng đã khuất bằng cách phong thưởng cho họ các danh hiệu cao quý 3.
Không chỉ là một vị tướng tài mà Trần Nhân Tông còn là một nhà tư tưởng, một nhà thơ và đặc biệt ông chính là người sáng lập Thiền phái Trúc Lâm, một tông phái Phật giáo đậm chất văn hóa Đại Việt. Tư tưởng Phật giáo của Ông là: hãy vui đạo giữa đời (cư trần lạc đạo), tư tưởng đó cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị và nó được đánh giá là sự kết tinh những giá trị cao cả nhất của nhân loại: Trí tuệ, lòng nhân ái và sự hòa giải.
Am Ngọa Vân (ảnh Anh Minh).
  Am Ngọa Vân (ảnh Anh Minh).
Trên phương diện văn chương, Trần Nhân Tông sáng tác nhiều thể loại văn học khác nhau bao gồm: thơ, phú, ngữ lục, vv.. thơ văn của Trần Nhân Tông “là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa cảm quan triết học và cảm quan thế sự, có tinh thần lạc quan, yêu đời, tấm lòng vị tha của một nhân cách cỡ lớn và sự rung động tinh tế, lòng yêu tự do của một nghệ sĩ. Ở đấy cũng thể hiện sự hòa hợp khó chia tách giữa một ngòi bút vừa cung đình vừa bình dị, dân dã, có cả những kiến thức sách vở uyên bác với sự từng trải lịch lãm”4 .
Với những đóng góp lớn lao trong việc lãnh đạo nhân dân Đại Việt trong việc bảo vệ và xây dựng đất nước, đưa đất nước phát triển về mọi mặt, làm phát triển hơn nữa những giá trị của nền văn minh Đại Việt, ông đi vào lịch sử dân tộc với vị trí một vị anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa tiêu biểu của dân tộc Việt Nam.
Còn nữa...
Tác giả: Thạc sĩ Nguyễn Văn Anh Trung tâm Nghiên cứu Kinh thành, Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam.
Trích trong cuốn Am Ngọa Vân, tác giả Nguyễn Văn Anh, NXB Văn hóa Thông tin năm 2013.

-------------------------------------------------------------------

1. Các vua nhà Trần làm vua một thời gian thì nhường ngôi cho con để lên làm Thái Thượng hoàng. Lên làm Thái Thượng hoàng không phải là để nghỉ ngơi mà là để dìu dắt, giám sát và cùng tham gia điều hành đất nước với vua, giúp vua làm quen với việc quản lý, điều hành đất nước. Chế độ này tạo nên tính liên tục trong quản lý và điều hành đất nước của nhà Trần. Ban đầu Thượng hoàng ở Bắc cung tại Thăng Long, khi Thiên Trường được xây dựng thì Thượng hoàng về ở tại cung Trùng Hoa, phủ Thiên Trường (nay thuộc phường Lộc Vượng, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định).
2. Trích thơ Trần Nhân Tông
3. Lê Mạnh Thiết. Trần Nhân Tông toàn tập, Nxb TPHCM
4. Thơ văn Lý - Trần, tập II. tr452