Điển tích xử án: Vụ "Chó cắn hạc vua"

Vua nhà Thanh biếu tặng vua Tự Đức một con hạc loại hiếm. Tự Đức quý lắm, cho đeo trước cổ tấm thẻ bài ghi “Thiên Tử Hạc” (Hạc của vua nuôi).

Thiên Tử Hạc quen hơi người nên được thả trong Vườn Thượng uyển.
Ngày nọ, con Thiên Tử Hạc bay ra khỏi Hoàng cung. Nó lạc vào vườn một thường dân nên bị chó của nhà này cắn chết. Vua Tự Đức thấy mất con hạc mình yêu quý, dày công tốn sức chăm nuôi nên truyền cho thuộc cấp điều tra.
Cấp dưới điều tra biết được việc chó nhà dân cắn chết hạc của vua nuôi nên đã quay về trình báo. Vua Tự Đức thấy hạc quý đã chết nên nổi giận, truyền cho Bộ hình luận tội. Bộ Hình kết án chủ chó phải tội tử hình và bị tịch thu toàn bộ gia sản.
Thiên Tử Hạc (Tranh minh họa).
Thiên Tử Hạc (Tranh minh họa).
Việc xử án của Bộ hình được quan Ngự Sử Phạm Đan Quế biết được. Sau khi xem xét các tình tiết, ông xin yết kiến vua Tự Đức và trình một bản tấu. Bản tấu ấy như sau:
Hạc bất năng ngôn/ Khuyển vô thức tự
Hạc nhập dân viên/ Khuyển trung vu chủ
Điểu, Thú đấu tranh/ U minh hà dự
Khuyển phệ hạc tử/ Tôi quy vu chủ
Hạc trắc khuyển tử/ Tường hà luật xử?
Dịch nghĩa:
Hạc chẳng biết nói/ Chó không biết chữ
Hạc vào vườn dân/ Chó trung với chủ
Chim, thú đánh nhau/ Tối sáng không rõ
Chó cắn chết hạc/ Tội quy cho chủ
Hạc mổ chết chó/ Luật xử thế nào?
Vụ án “chó cắn hạc vua” cũng đã để lại một điển tích hay về việc xử án ngày xưa của cha ông mà ngày nay chúng ta vẫn cần phải học tập. Đó là không phân biệt hay thiên vị một ai trong việc phân xử, chỉ có lẽ phải là luôn được tôn trọng triệt để.
Nghe xong, vua Tự Đức cấp tốc hạ lệnh hủy bỏ bản án và không bàn đến nữa. Bởi đối với vua Tự Đức, những lời của Phạm Đan Quế không những có tình mà còn rất có lý: Chó và hạc đều là vật. Cả hai không biết nói, không biết chữ nên hạc đeo thẻ đề Thiên Tử Hạc chó cũng không biết.
Như vậy, chó cắn chết hạc là do cái thói cắn nhau của hai con vật, nên không thể bắt chủ chó thế mạng. Nếu bản án trên thi hành như kết luận của Bộ Hình thì sau này thành án lệ. Chẳng hạn, lỡ có ngày chó hoàng cung cắn chết cầm thú nhà dân hay cắn chết người ta, không biết sẽ nghị án ra sao. Không lẽ phải bắt vua trị tội?
Tuy nhiên, càng nghĩ càng thấy vụ án không hề đơn giản. Bởi trong chế độ phong kiến, ý vua tức là ý trời, không ai dám trái lệnh. Nhưng do ông Phạm Đan Quế nói quá có tình có lý nên vua Tự Đức đã nghe theo. Và việc vua Tự Đức nghe theo cũng chứng minh vị vua này cũng là một vị vua anh minh, biết nghe lời can gián của quần thần. Chính vì thế vụ án “chó cắn hạc vua” cũng đã để lại một điển tích hay về việc xử án ngày xưa của cha ông mà ngày nay chúng ta vẫn cần phải học tập. Đó là không phân biệt hay thiên vị một ai trong việc phân xử, chỉ có lẽ phải là luôn phải được tôn trọng triệt để.
Vụ án “Hải tặc”
Ở đường Chi Lăng còn có Chiêu Ưng Từ, nằm đối diện chợ Cồn Phú Cát hiện nay. Ngôi đền do Hoa thương phố Gia Hội xưa quyên góp sửa ngôi chùa cổ đã sụp đổ vào năm 1887. Năm 1908, ngôi đền được trùng tu và có tầm vóc như ngày nay. Đây là ngôi đền ghi dấu một vụ án vào đời Tự Đức.
Vụ án diễn ra vào mùa hè năm Tân Hợi (1851), khi vua Tự Đức đọc được tờ tấu do Bộ binh chuyển lên báo Chưởng vệ Phạm Xích, Lang Trung Tôn Thất Thiều tâu trình đã đánh đuổi ba tàu hải tặc ở vùng biển Quảng Nam - Quảng Ngãi, rằng quan binh đã bắn chìm một chiếc, một chiếc bị quan binh áp sát, giết được rất nhiều hải tặc, thu tàu giải về neo tại vụng Chiêm Dữ, một chiếc bỏ chạy về phía đông, xin báo công để triều đình ban thưởng.
Vua Tự Đức xem xong tờ tâu liền sinh nghi vì đánh nhau với hải tặc mà lính tráng chẳng ai bị thương tích gì, còn phía bên kia thì chết sạch không một người bị bắt làm tù binh. Vụ việc nghiêm trọng nên vua Tự Đức nhấc bút châu phê vào tờ tấu: “Giao qua Bộ Binh điều tra cho rõ sự tình”.
Liền sau đó Quan thượng thư Bộ binh phái thuộc cấp đi khám xét. Vài ngày sau, thuộc cấp đi về phúc trình rằng chiếc tàu giặc biển giống thuyền buôn hơn là tàu giặc. Ngay lúc ấy, một phụ nữ Hoa kiều đến nha môn xin cáo giác. Nguyên bà là Hoa kiều, làm nghề tiệm ăn ở phố Gia Hội, thấy chồng cũng là Hoa kiều về nước bặt tin đã lâu.
Nhưng khi viên đội trưởng trong vệ Tuyển Phong tên Trần Hựu đem bạn bè về chiêu đãi tại quán bà nhưng không đủ tiền trả nên rút chiéc nhẫn cầm tạm bảo thối tiền mặt. Bà chủ thấy nhẫn ngờ ngợ, xem kỹ nhận ra bảo vật của chồng liền vặn hỏi. Trần Hựu lúc đầu tìm cách chối, sau chịu theo bà đến nha môn trình việc. Hoá ra y là thủ hạ của Tôn Thiết Thiếu.
Trước mặt quan Bộ binh, Trần Hựu cung khai rằng ngày 17.6.1851, thuyền quan đậu ở cửa Thi Nại, được tin có ba chiếc thuyền lạ đậu ngoài hải phận đảo Thanh Dư. Chưởng vệ Phạm Xích và Thi lang Tôn Thất Thiều lập tức đuổi theo bắn và áp sát để bắt. Mặc dù đã trình thẻ nhà buôn nhưng 108 người Hoa trên tàu bắt được đều bị chém chết rồi đem quăng xuống biển mất xác.
Ngoài ra sau đó còn tìm thấy một người khác trốn dưới đáy khoang. Bị phát giác, người này chạy thoát lên boong, phóng xuống biển mất tích. Toàn bộ hàng hóa trên chiếc tàu buôn của người Hoa được chuyển sang chiếc Bằng Đoàn của quan binh rồi chiếc thuyền buôn được sơn lại toàn màu đen để trông như tàu hải tặc và dẫn về vụng Chiêm Dữ.
Vụ án “hải tặc” còn thể hiện được sự sáng suốt của vua Tự Đức trong bang giao với Trung Quốc, nhất là trong chính sách bảo vệ ngoại kiều đến làm ăn, buôn bán với nước ta, góp phần mở mang thông thương, bang giao hữu nghị với các nước.
Trước công đường, bà chủ quán ở phố Gia Hội kêu oan rằng chồng bà cùng nhiều bạn khác thuộc các bang ở Huế và Quảng Nam, Quảng Ngãi nhân về nước thăm quê nhà ở Hải Nam đã kết hợp đi buôn, có giấy phép của trên cấp. Vậy mà nay lại bị chết oan mà còn mang tiếng là hải tặc. Quan Thượng thư Bộ binh sau khi gọi thêm nhân chứng điều tra, làm tờ tâu, nói bọn Xích giết càn và mạo xưng công lại.
Vua Tự Đức thịnh nộ, phê giao Ty tam pháp xét xử. Thiều chủ mưu, bị đổi theo họ mẹ (Đặng), cùng Xích đều bị xử tội lăng trì, vợ con phải phát phối; Dương Cù đồng loã, xử tội trảm quyết; Trần Hựu biết thú nhận khi chưa tra khảo nên được tha. Bản án dâng lên, vua Tự Đức châu phê chuẩn ngay, còn xuống chỉ truy thu tang vật trả lại thân nhân những người bị hại.
Do đó, hằng năm vào độ rằm tháng sáu âm lịch, kể khi Chiêu Ứng từ xây xong, thân nhân các nạn nhân Hoa kiều sống tại Việt Nam hay từ Hải Nam, cũng như người Hoa kiều từ các nơi qui tụ về đây để làm lễ tưởng niệm, thường thường lễ kéo dài đến ba ngày. Truyền thống đó vẫn còn lưu giữ đến ngày nay.
Có thể nói rằng, bản án của vua Tự Đức phê chuẩn không những đã minh oan cho nạn nhân của vụ án “Hải tặc” mà còn cho thấy pháp luật Việt Nam nghiêm minh, không phân biệt một ai. Bản án còn thể hiện được sự sáng suốt của vua Tự Đức trong bang giao với Trung Quốc, nhất là trong chính sách bảo vệ ngoại kiều đến làm ăn, buôn bán với nước ta, làm cho nước ta không bị Trung Quốc có cớ gây khó dễ về mặt chính trị.
Vụ án Phạm Đăng Tuấn
Năm 1872, giặc Pháp ồ ạt đánh chiếm các tỉnh miền Bắc nước ta. Các thành trì của quan quân đa phần đều thất thủ. Do đó, vua Tự Đức đã triều hồi cử nhân Phạm Đăng Tuấn, đương chức quan Án sát tỉnh Ninh Bình về Huế để nhận án chém.
Quân triều đình dũng cảm đánh nhau với quân Pháp (Tranh minh họa).
 Quân triều đình dũng cảm đánh nhau với quân Pháp (Tranh minh họa).
Nghe báo tin dữ, con gái của Phạm Đăng Tuấn là cô Phạm Thị Tảo mới khoảng 12-13 tuổi đã cuốc bộ từ Diễn Châu (Nghệ An) vào Huế, mang theo lá đơn xin được chết thay cho cha. Dâng lá đơn lên vua Tự Đức, hai cha con họ Phạm tưởng sẽ bị vua chém đầu cả hai. Nhưng thật không ngờ, vua Tự Đức cảm động trước lòng chí hiếu của cô gái trẻ, đã tha tội chém cho án sát Phạm Đăng Tuấn, nhưng đày ông lên Lạng Sơn.
Chắc chúng ta sẽ nhầm tưởng vì vua Tự Đức là một người con rất có hiếu đối với mẹ là bà Từ Dũ nên lòng chí hiếu của cô gái trẻ đã tác động mạnh đến ông. Nhưng không, vua Tự Đức cũng hiểu được là quân triều đình thua, để mất Ninh Bình là do thế lực đôi bên quá chênh lệch, chứ không phải quan dân ta sợ giặc.
Tuy nhiên, việc triệu hồi Phạm Đăng Tuấn về chém ở Huế đã chứng tỏ vua Tự Đức không phải là vị vua hèn yếu trước quân thù, chỉ biết dâng đất để cầu an mà vua cũng rất xót dạ đau lòng trước cảnh thực dân Pháp giày xéo con dân và đất nước của mình.

Những kiểu xét án lạ lùng trong sử Việt

Thời phong kiến, trong lĩnh vực hình án, việc xét xử những tội trạng, sự việc có chứng cứ rõ ràng chỉ cần căn cứ vào hình luật mà y việc. Nhưng với những việc cần điều tra, xét hỏi, việc nghị án không dễ chút nào bởi chứng cứ mất mát mà việc phục dựng hiện trường cũng không dễ tiến hành. Ấy thế nên nhiều vị pháp quan phải vận dụng trí thông minh tuyệt đỉnh của mình mà mở án những vụ khó khăn. 

Phạt roi. Lấy trong sách Kỹ thuật của người An Nam do Henri Oger vẽ.
 Phạt roi. Lấy trong sách Kỹ thuật của người An Nam do Henri Oger vẽ.

Trận hỏa hoạn nên duyên kiểm pháp. Ấn đầu người biết đến trước, sau

Tháng 2 năm Mậu Dần (1278), niên hiệu Bảo Phù năm thứ 6 thời trị vì của vua Trần Thánh Tông. Lúc này dân ta chết nhiều vì bệnh đậu mùa rất nhiều, một bệnh nằm trong “tứ chứng nan y” thời đó khi không có thuốc chữa. 

Dạo ấy, nhà dân ở kinh thành thường bị cháy về ban đêm, chẳng biết do bị phóng hỏa hay đốt đống rấm (đống chấu) để xóa dịch bệnh. Vua Thánh Tông ra ngoại thành xem chữa cháy, Nội thư gia Đoàn Khung được đi theo hầu. Theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục cho hay, vua muốn biết người nào đến trước, đến sau tham gia việc chữa cháy, bèn sai quan Nội thư gia họ Đoàn điểm danh, báo cáo. Việc này thực khó, vì muốn biết ai đến trước đến sau, cứ hỏi chính người đó mới biết. Nhưng chắc không phải ai cũng tâu thật. Quan Đoàn Khung liền nghĩ ra một kế. 

Ông tập hợp những người chữa cháy lại xếp thành hàng, rồi ấn đầu từng người một bảo ngồi xuống để đếm, đếm xong tâu rõ với vua người nào đến trước, người nào đến sau, quả nhiên không sai chút nào. Khâm phục tài năng của họ Đoàn, vua Thánh Tông bèn hỏi:

- Tại sao mà ngươi biết rõ thế được?

Đoàn Khung bấy giờ chắp tay mà rằng: 

- Thần ấn đầu người nào mà thấy mồ hôi thấm tóc và có tro bụi bám vào thì đó là những người đến trước và cố sức chữa. Người nào đầu tóc không có mồ hôi mà tro bụi bay rơi là người đến sau không kịp chữa, vì thế mà biết. 

Vua cho là giỏi, có ý cất nhắc để dùng. Nhưng 8 tháng sau, ngày 22 tháng 10 âm lịch cùng năm, Trần vua nhường ngôi cho con trai là Hoàng Thái tử Trần Khâm (tức là vua Trần Nhân Tông) rồi lên làm thái thượng hoàng. Ông về ở Bắc cung rồi đi tu, nghiên cứu Phật học, viết sách. Thời vua Anh Tông, nhớ lại việc của Đoàn Khung, vua liền cất nhắc viên Nội thư gia năm xưa, cho Đoàn Khung làm Kiểm pháp quan, khi xét án, hễ Anh Tông hỏi về điển lệ cũ, Đoàn Khung đều dẫn được án cũ làm chứng, có khi dẫn nhiều đến năm, sáu án. Vua Anh Tông khen viên Kiểm pháp quan họ Đoàn thông minh nhớ lâu và suy xét thấu đáo. Có được viên Kiểm pháp như thế, cũng là cái lợi cho dân nơi công đường, hình án.
 
Quan cho dân tát người, xét án ra thủ phạm

Đời vua Lê Hy Tông (1663 - 1716) thời Lê Trung hưng, lúc này đất nước phân chia, thiên hạ đại loạn, trộm cắp cũng theo đó mà nhiều vô số kể. Việc hình án cũng bởi thế mà tăng lên không ngừng. Chốn công đường cũng không khỏi nhiêu sự vụ khó khăn. Nhưng nhân tài Nguyễn Mại từ đó mà ló dạng. 

Tù nhân. Lấy trong sách Kỹ thuật của người An Nam do Henri Oger vẽ.
 Tù nhân. Lấy trong sách Kỹ thuật của người An Nam do Henri Oger vẽ.

Quan Nguyễn Mại, người làng Ninh Xá, huyện Chí Linh, Hải Dương, năm 37 tuổi dự thi khoa Tân Sửu (1691) niên hiệu Chính Hòa đỗ Hoàng giáp, trong thời gian làm quan nhà Lê Trung hưng, ông được khen là: “có sức khỏe, có mưu lược, làm quan Thị lang Lễ bộ, ra trấn thủ Sơn Tây, có chính tích đặc biệt, trộm cướp phải nín hơi, xét kiện sáng suốt, danh vọng rất cao” (Trích Đại Nam nhất thống chí, phần Hải Dương tỉnh chí, mục Nhân vật chí).

Cái chính tích đặc biệt được nói tới ở trên, xảy ra lúc Nguyễn Mại đang làm quan trấn thủ tỉnh Sơn Tây. Thỉnh thoảng, quan trấn thủ hay ra ngoài công đường đi xem xét dân tình nơi mình trị nhậm. Cũng từ một trong những lần thực tế ấy, Nguyễn Mại đã xử một vụ án với cách xử hiếm lạ để người đời sau truyền tụng là quan xử án giỏi. Việc này, trong Đăng khoa lục sưu giảng của Thượng thư Trần Tiến đời vua Lê Hiển Tông (1717 - 1786) và sách Hải Dương phong vật chí còn ghi lại sự vụ. Theo đó, một hôm ông Nguyễn Mại đi bộ qua chợ Bảo Khám thuộc huyện Gia Bình (nay là huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh), thấy một người đàn bà mất một cái màn (Hải Dương phong vật chí viết vật bị mất là con gà), chắc xót của lắm nên chửi rủa mãi không thôi, lại lôi cả tam đời, ngũ đại nhà kẻ ăn trộm ra mà chửi.

Sau khi biết sự tình, ông cho gọi người đàn bà mất của lại hỏi chiếc màn đáng giá bao nhiêu tiền để ông trả. Sau ông sai lính trói người đàn bà ấy ở quán, rồi cho gọi làng xóm đến, vờ mắng người đàn bà bị trộm màn cái tội chua ngoa:

- Mất một cái màn đáng giá bao nhiêu tiền mà bà chửi tổ tông người ta? 

Nói xong, ông sai tất cả đàn ông, đàn bà trong xóm ấy vả vào má người đàn bà mất màn vì tội chửi ngoa. Dân trong làng thương người đàn bà ấy lắm, bởi bà ăn ở cũng không đến nỗi nào, đã mất màn lại còn bị tát. Nhưng lệnh quan ra là phải theo, bởi vậy ai cũng phải tát bà ta, nhưng không nỡ tát mạnh. Duy chỉ có một người đàn bà trong làng ra sức tát thật mạnh. Bởi chính mụ này là kẻ ăn trộm, giận vì bị lôi cả tông tộc ra mà chửi nên tát thật mạnh cho sướng tay để trả thù. Nhưng mụ ta nào có biết ý của Nguyễn Mại. Mụ vừa tát xong, quan họ Nguyễn đã cho giữ lại, tra hỏi luôn:

- Chính ngươi đã ăn trộm màn nên mới động lòng mà đánh người ta đau như thế, tội ấy còn chối cãi sao được!

Quả nhiên kẻ ăn trộm màn chính là mụ ta. Chiếc màn được trả lại cho người bị mất, còn mụ đàn bà ăn trộm cứ chiểu theo luật mà định tội. Dân tình trong làng ai cũng khen quan Nguyễn Mại là thần minh, xét án công bằng, sáng suốt mà ít ai ngờ tới. Sau này khi quan Nguyễn Mại mất, người hạt Sơn Tây nhớ công đức của ông có làm bài Sơn Tây Đức chính ký ca ngợi công đức của vị pháp quan. 

Lại cũng dạo đang làm quan, theo Hải Dương phong vật chí cho hay, ở ngôi chùa thuộc huyện Sơn Vi (nay thuộc huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ), các ni cô tụ họp ở đó, rồi một ni cô kêu mất chiếc xiêm lụa. Biết việc, Nguyễn Mại sai lập đàn cúng, rồi lệnh cho các ni cô một tay cầm tay người kia, một tay nắm ít thóc, cùng chạy quanh đàn cúng. Ông lại vờ bảo, ai là người gian tà thì thóc nắm trong tay sẽ nảy mầm. Các ni cô cứ thế tay cầm tay, lại tay nắm thóc chạy quanh đàn. Để ý, viên quan giỏi xử án thấy một ni cô thường hay hé tay để xem nắm thóc nảy mầm hay chưa. Đoán biết được kẻ trộm áo, ông cho mọi người ngừng chạy quanh đàn cúng, gọi ni cô kia đến bảo phải mau thú nhận. Đúng như quan sát của ông, ni cô ấy nhận tội. Cả chùa khen ông là tài. 

Khi nói đến đất Hải Dương, người đời sau không thôi nhắc đến ông, như trong Đại Nam dư địa chí ước biên, Tổng tài Quốc sử quán Cao Xuân Dục tán tụng rằng: 

Có chính tốt, được dân Sơn Tây yêu mến, còn bia để lại, thì Nguyễn Mại, xứ Ninh Xá; 
Ở nơi đầu sóng ngọn gió, xét án trên đầu voi thì Phạm Đình Trọng ở Khinh Giao.


Quan Phí Trực cẩn trọng xét án, chức An Phủ Thiên Trường trao tay

Đầu thế kỷ XIV, nhà Trần vẫn đang còn ở thời thịnh. Thời vua Anh Tông (1293 - 1314) xã tắc bền vững, thiên hạ no ấm. Đời vua Minh Tông (1314 - 1329) cũng thế. Nhưng mấy năm đầu vua mới Minh Tông lên ngôi, trộm cướp đã bắt đầu nổi lên. 

Thời ấy, trong các đảng cướp, có tên Văn Khánh được xem là đầu sỏ bọn cướp. Triều đình nhiều lần cho quan quân lùng bắt mà không được. Thế mà bỗng dưng có người khai là bắt được một tên cướp, giải lên nộp quan và bảo tên bị bắt ấy là Văn Khánh. Đến lúc tra hỏi, người bị bắt cũng nhận ngay mình là Văn Khánh, ai cũng cho đúng là tên cướp đầu sỏ ấy. Duy có mỗi Phí Trực là Hình bộ lang trung vẫn nghi ngờ, vì không hiểu sao tên trộm đầu sỏ mà lại bị bắt dễ thế, còn khai ngay mình là Văn Khánh chứ không chối quanh thì không khỏi chịu cái tội lụy đến thân. Bởi hình pháp nhà Trần rất thảm khốc, kẻ trộm và người trốn tránh đều phải chặt chân, chặt tay hay là cho voi giày đến chết để chừa mãi thói Đạo chích. Vì phân vân, nên án ấy để lâu không giải quyết. Thượng hoàng Anh Tông biết chuyến đó mới hỏi, Phí Trực trả lời:

- Mạng người rất trọng, lòng thần còn có chỗ nghi ngờ, nên không dám liều lĩnh xử quyết. 

Không bao lâu, Thượng hoàng hỏi lại án Văn Khánh, Phí Trực vẫn trả lời như lần trước. Thượng hoàng giận ông, bảo:

- Nó đã nhận như thế, ngươi còn ngờ gì nữa mà không xử đi. 

Quan Phí Trực tâu: 

- Nó không bị tra tấn khổ sở mà điềm nhiên thú nhận, thần trộm lấy làm ngờ. 

Một tháng sau, tên Văn Khánh thật quả nhiên bị bắt. Thượng hoàng lúc đó mới thấy tài năng của ông Hình bộ lang trung. 
Tháng 3 năm Đinh Tỵ (1317), “Thượng hoàng ngự cung Trùng Quang (ở hành cung Thiên Trường – người dẫn chú). Hình Bộ lang trung Phí Trực theo hầu. Chứ An phủ Thiên Trường khuyết, sai Trực kiêm làm” (trích Đại Việt sử ký toàn thư), xem đó như một đặc ân. Bởi theo lệ nhà Trần người được cử làm An Phủ sứ Thiên Trường phải là những viên quan đã từng kinh qua An Phủ sư cấp lộ, rồi khảo hạch đủ chuẩn mới bổ dụng. Nhưng với Phí Trực thì xem đó như một ngoại lệ bởi tính cẩn thận, minh bạch của ông. 

Giả giấc mộng lạ, tìm ra kẻ ác

Theo Đại Việt sử ký tục biên, năm Canh Thân (1680), niên hiệu Chính Hòa năm thứ nhất, triều đình tổ chức “Thi hội các viên cống cử trong nước, lấy đỗ bọn Nguyễn Côn 19 người. Khi thi Đình cho bọn Phạm Công Thiện (người Ngọc Thiện, huyện Gia Định), Nguyễn Công Xán (người xã Thượng Yên Quyết, huyện Từ Liêm) đỗ tiến sĩ xuất thân (hoàng giáp)”. Cũng trong kỳ thi ấy, dù không đỗ cao tột bậc, nhưng Nhữ Đình Hiền  (1659 - ?) cũng dự phần đỗ đạt, làm nên công trạng hiển hách, được người đời biết đến nhiều.

Xử án thời Nguyễn.
 Xử án thời Nguyễn. 

Nhữ Đình Hiền còn có tên khác là Nhữ Tiến Hiền, người làng Hoạch Trạch, huyện Đường An, xứ Hải Dương (nay thuộc xã Thái Học, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương). Ông vốn là con của Tiến sĩ Nhữ Tiến Dụng đất Hải Dương đời Lê Trung hưng. Noi gương cha, ông học hành tấn tới, đến khi đi thi, đỗ tiến sĩ khoa thi được nói tới ở trên. Trong đời làm quan, ông phụng mệnh đi sứ phương Bắc, làm quan đến chức Thượng thư bộ Hình, có biệt tài về chính sự, xử án rất công bằng. Người đời còn truyền tụng một câu chuyện xử án nói lên tài trí của ông. Việc được Phạm Quý Thích, một danh thần cùng quê chép trong Hải Dương phong vật chí. 

Lúc bấy giờ, có một vụ nghi án xảy ra. Ở vùng nọ có hai chị em ruột đều đã lập gia đình. Người em gái vì biết tin chị gái bị ốm nên đến săn sóc. Nhà hai chị em cách nhau khá xa. Nhiều ngày sau người chồng của cô em gái không thấy vợ mình trở về. Nghi là vợ mình đã bị chồng của chị gái vợ làm hại, người chồng của cô em gái mất tích mới kiện lên quan làm cho người chồng của chị gái trở thành nghi phạm lớn nhất, bị giam vào ngục. Các quan thay nhau xét án, nhưng chứng cứ không có trong tay, việc ấy đình trệ tới sáu, bảy năm mà vẫn chưa luận định được.

Đến khi án ấy được đưa tới tay quan Thượng thư bộ Hình Nhữ Đình Hiền, không dựa vào những bản cung hình trước của các quan đã kinh qua vụ án này. Quan Thượng thư họ Nhữ muốn tìm chứng cứ thực tế thuyết phục để giải đáp khuất tất. Khi xem địa đồ khu đất bao quanh khoảng nhà hai chị em, ông thấy có một ngôi chùa ở ngoài cánh đồng cây cối rậm rạp mà người thiếu phụ xấu số khi đi tất đến nhà cô chị tất phải qua đó. Đoán rằng, chắc người em gái xấu số kia nhất định bị bọn ác tăng trong ngôi chùa này giở trò đồi bại trước khi đến được nhà chị gái mình. Để có cơ sở thực tế, ông lập tức sai người đưa tới ngôi chùa kia, mượn tiếng tham thiền để lưu lại chùa ấy một đêm.

Sáng hôm sau, Nhữ Đình Hiền cho triệu tập các tăng đồ trong chùa lại, lấy cớ đêm qua nằm thấy có người đến báo mộng, mới dọa rằng:

- Các người đều là kẻ tu hành, sao lại có oan hồn đến tố giác với ta? Vậy thì sự thể ra sao, phải mau tự thú.

Những tên sư hổ mang đều tái mặt khi nghe ông nói, bèn chỉ tay ra một cây tháp. Khi đào chỗ ấy lên, xác người thiếu phụ bị cưỡng hiếp quả nằm dưới ấy. Vụ án nhờ đó được làm sáng tỏ, người chồng của chị gái mới thoát khỏi án ngục, xóa tội. Còn những tên sư phạm tội thì nghiêm trị không chút dung tha. 

Tài xét án của Nhữ Đình Hiền, về sau, đa phần đều giải quyết được những vụ án khó. Thế nên người đương thời mới có câu khe: “Văn chương Lê Anh Tuấn, chính sự Nhữ Đình Hiền”. Lại xếp ông nằm trong danh sách “Tràng An tứ hổ” gồm 4 danh thần giỏi giang bậc nhất đất Thăng Long: Vũ Diệm (1705 - ?), Nguyễn Bá Lân (1700 - 1786), Nhữ Đình Hiền (1659 - ?), Nguyễn Công Thái (1684 - 1758). 

TIN BÀI LIÊN QUAN

BÀI ĐANG ĐỌC NHIỀU

Gieo quẻ thứ ba (25/3) cho 12 con giáp

(Kiến Thức) - Đây là thời điểm thích hợp để tuổi Hợi vạch định kế hoạch mới cho mình. Màu sắc may mắn của bạn hôm nay là màu xanh đen.

Tý: Giờ tốt của tuổi Tý hôm nay là giờ Thìn (7 – 9 giờ), màu sắc may mắn là màu tím violet.
Tý: Giờ tốt của tuổi Tý hôm nay là giờ Thìn (7 – 9 giờ), màu sắc may mắn là màu tím violet. 

Sửu: Bạn luôn cảm thấy tương lai phía trước mờ mịt. Hãy lạc quan và vững tin hơn, thành công ắt sẽ đến với bạn. Giờ tốt của tuổi Sửu hôm nay là giờ Thân (15 – 17 giờ), màu sắc may mắn là màu xanh nhạt.
Sửu: Bạn luôn cảm thấy tương lai phía trước mờ mịt. Hãy lạc quan và vững tin hơn, thành công ắt sẽ đến với bạn. Giờ tốt của tuổi Sửu hôm nay là giờ Thân (15 – 17 giờ), màu sắc may mắn là màu xanh nhạt. 

Khám phá Tòa Thánh cốt tre nổi tiếng thế giới của VN

(Kiến Thức) - Tòa Thánh Tây Ninh (Thị trấn Hòa Thành, Tây Ninh) của đạo Cao Đài có lẽ là một trong những công trình kiến trúc tôn giáo độc đáo nhất trên thế giới.

Tòa thánh Tây Ninh được khánh thành năm 1947. Tổng thể công trình mang hình tượng Long Mã bái sư. Mặt tiền Tòa Thánh như đầu Long Mã nhìn thẳng về phía Tây. Hai lầu chuông và trống vươn lên như hai sừng nhọn. Nằm giữa lầu chuông và lầu trống là tòa nhà lầu với tầng trệt có tên Tịnh Tâm Đài như miệng Long Mã hả ra. Khu vực Bát Quái Đài nằm phía cuối của Đền Thánh là phần đuôi của Long Mã. Một điều đặc biệt là công trình này được xây dựng bằng bê tông cốt tre.
Tòa thánh Tây Ninh được khánh thành năm 1947. Tổng thể công trình mang hình tượng Long Mã bái sư. Mặt tiền Tòa Thánh như đầu Long Mã nhìn thẳng về phía Tây. Hai lầu chuông và trống vươn lên như hai sừng nhọn. Nằm giữa lầu chuông và lầu trống là tòa nhà lầu với tầng trệt có tên Tịnh Tâm Đài như miệng Long Mã hả ra. Khu vực Bát Quái Đài nằm phía cuối của Đền Thánh là phần đuôi của Long Mã. Một điều đặc biệt là công trình này được xây dựng bằng bê tông cốt tre.