Chuyên gia y khoa chia sẻ thông tin khoa học về bột ngọt

(Kiến Thức) - Bên cạnh công dụng là gia vị nêm nếm phổ biến trong nấu ăn, nhiều nghiên cứu khoa học gần đây còn cho thấy bột ngọt còn có vai trò làm tăng tiết nước bọt, giúp ăn uống ngon miệng hơn, nhất là người cao tuổi.

Để tìm hiểu rõ hơn về vai trò khoa học hữu ích này của bột ngọt, hãy cùng lắng nghe chia sẻ từ góc nhìn chuyên gia của PGS. TS.BS. Nguyễn Tiến Dũng - Nguyên Trưởng khoa Nhi, Bệnh viện Bạch Mai.
1. Bột ngọt là gì?
PGS.TS.BS Nguyễn Tiến Dũng: Nhiều người nghĩ bột ngọt là thành phần gì đó xa lạ, nhưng không phải. Thực chất bột ngọt là mononatri glutamate, tức muối natri của axit amin glutamate (axit glutamic). Đây là một trong 20 loại axit amin phổ biến trong tự nhiên, tồn tại cả ở cơ thể người và các loại động thực vật khác.
Điểm đặc biệt là glutamate có vị ngon dễ chịu cho món ăn mà thế giới gọi là vị “umami”. Tiến sĩ người Nhật Bản Kikunae Ikeda khám phá ra điều này vào năm 1908, khi ông nghiên cứu và phát hiện ra glutamate là thành phần có vị ngon cho nước dùng dashi của người Nhật, cũng như vị ngon của các thực phẩm như cà chua, măng tây, pho mát hay thịt. Ông đặt tên cho vị của glutamate là vị umami với hàm nghĩa “vị ngon”.
Chuyen gia y khoa chia se thong tin khoa hoc ve bot ngot
Glutamate – thành phần chính của bột ngọt tồn tại trong hầu hết các thực phẩm tự nhiên như cà chua, măng tây, pho mát, hải sản,… 
Dưới góc độ nhi khoa, vị umami và vị ngọt là 2 vị mà trẻ em có biểu hiện yêu thích nhất một cách tự nhiên. Để dễ hình dung về vị umami, chúng ta có thể hiểu vị này chính là vị ngọt của thịt, của hải sản hay rau củ quả.
Glutamate có mặt trong hầu hết thực phẩm chúng ta ăn vào hàng ngày, ví dụ các loại thịt chứa khoảng 10 – 20mg glutamate/100g thực phẩm, sò điệp chứa đến 140mg glutamate/100g; rau củ cũng giàu glutamate như bắp cải chứa 50mg/100g, cà chua chứa đến 250mg/100g… Đặc biệt, sữa là thực phẩm giàu glutamate, trong đó sữa mẹ có hàm lượng glutamate cao vượt trội lên đến 2.700mg/100ml sữa mẹ.
2. Bột ngọt có khả năng làm tăng tiết nước bọt?
PGS.TS.BS Nguyễn Tiến Dũng: Bột ngọt tương tự như các thành phần tạo vị cơ bản khác, có khả năng làm tăng tiết nước bọt. Tuy nhiên, điều đáng ngạc nhiên là bột ngọt làm tăng tiết nước bọt nhiều và lâu hơn bất kỳ vị cơ bản nào, ngay cả so với vị chua.
Chuyen gia y khoa chia se thong tin khoa hoc ve bot ngot-Hinh-2
 Bột ngọt giúp chúng ta cảm nhận vị thực phẩm tốt hơn, ăn uống ngon miệng hơn.
Nước bọt đóng vai trò quan trọng đối với hoạt động của khoang miệng như hỗ trợ tiêu hóa thực phẩm, giúp cảm nhận vị thực phẩm, bôi trơn và làm mềm thực phẩm, tham gia vào quá trình bảo vệ sức khỏe răng miệng, hạn chế sự xâm nhập của vi sinh vật nhờ kháng thể IgA có trong nước bọt. Như vậy, khả năng làm tăng tiết nước bọt của bột ngọt có thể giúp chúng ta cảm nhận vị thực phẩm tốt hơn, ăn uống ngon miệng hơn, đặc biệt, đối với những người cao tuổi bị khô miệng do tiết nước bọt ít thì sử dụng bột ngọt trong bữa ăn có thể hỗ trợ cải thiện tình trạng này.
3. Nên sử dụng bao nhiêu gam bột ngọt mỗi ngày?
PGS.TS.BS Nguyễn Tiến Dũng: Một số gia vị quen thuộc như muối và đường thì có khuyến nghị liệu dùng hàng ngày. Tuy nhiên, đối với bột ngọt, hiện nay không có quy định về liều dùng hàng ngày.
Cụ thể, JECFA và EC/SCF xác nhận bột ngọt là một gia vị an toàn với liều dùng hàng ngày (ADI - acceptable daily intake) “không xác định”. Trong thông tư mới ban hành năm 2019 của Bộ Y tế, bột ngọt cũng được liệt vào danh mục các chất phụ gia thực phẩm được phép sử dụng trong chế biến thực phẩm và không quy định liều dùng hàng ngày.
Như vậy, chúng ta có thể sử dụng bột ngọt theo khẩu vị cho từng món ăn khác nhau. Riêng đối với trẻ em là nên sử dụng một lượng ít hơn so với người lớn.

Tập huấn phần mềm dinh dưỡng cho mẹ và bé của Bộ Y Tế

(Kiến Thức) - Với mong muốn nhân rộng phần mềm “Xây dựng thực đơn cân bằng dinh dưỡng dành cho phụ nữ mang thai, bà mẹ cho con bú và trẻ em từ 7 tháng đến 60 tháng tuổi” đến các cơ sở y tế, Bộ Y tế đã tổ chức buổi tập huấn với sự tham gia của hơn 90 lãnh đạo và cán bộ y tế tại Hà Nội.

Tham gia tập huấn, về phía Bộ Y tế có sự tham dự của TS. Trần Đăng Khoa – Phó Vụ trưởng, Vụ Sức khỏe Bà mẹ - Trẻ em, GS. TS. TTND. Lê Danh Tuyên – Viện trưởng Viện Dinh dưỡng Quốc; Đại diện Sở Y tế Hà Nội và Trung tâm Kiểm soát Bệnh tật Thành phố Hà Nội; Lãnh đạo Khoa Sản/khoa Dinh dưỡng và đại diện các Bệnh viện cấp bộ ngành và tuyến tỉnh chuyên Sản hoặc có khoa Sản như Bệnh viện Phụ sản Trung ương, Bệnh viện Bạch Mai, Bệnh viện 103, Bệnh viện Quân đội 108, bệnh viện Phụ sản Hà Nội...,các trường Đại học y tại Hà Nội như Đại học Y tế Công cộng, Đại học Y Hà Nội... và các đơn vị liên quan.
Tap huan phan mem dinh duong cho me va be cua Bo Y TeTS. Trần Đăng Khoa – Phó Vụ trưởng, Vụ Sức khỏe Bà mẹ - Trẻ em phát biểu tại chương trình.

Chia sẻ tại buổi tập huấn, TS. Trần Đăng Khoa - Phó vụ trưởng Vụ Sức khỏe Bà mẹ - Trẻ em cho biết: "Vấn đề cân bằng dinh dưỡng tại Việt Nam rất cấp bách. Trong khi người dân vùng sâu vùng xa đang chịu gánh nặng suy dinh dưỡng cao gấp 3 lần các khu vực phát triển, thì các thành phố lớn lại ghi nhận tỷ lệ béo phì gia tăng. Sự ra đời của phần mềm với hơn 1.300 thực đơn hợp khẩu vị vùng miền sẽ là giải pháp hữu hiệu giúp giải quyết vấn đề trên".

Tăng huyết áp có nên sử dụng mì chính?

(Kiến Thức) - Nhiều thông tin cho rằng, sử dụng mỳ chính trong nấu ăn hằng ngày có khả năng giảm lượng muối tiêu thụ. Đây là một tín hiệu đáng mừng đối với người tăng huyết áp.

Dưới góc nhìn khoa học, hãy cùng TS. BS Nguyễn Trọng Hưng – Trưởng khoa Tư vấn dinh dưỡng người lớn Trung tâm Tư vấn, phục hồi dinh dưỡng và kiểm soát béo phì thuộc Viện Dinh dưỡng Quốc gia, Phó Trưởng khoa Dinh dưỡng lâm sàng và tiết chế – Bệnh viện Nội tiết Trung ương đã giải đáp thông tin thú vị này.
- Có ý kiến cho rằng người bị tăng huyết áp không nên dùng mì chính do mì chính có chứa natri. Trong khi đó, gần đây lại có thông tin dùng mì chính có thể giúp giảm muối ăn vào. Điều này nên hiểu như thế nào thưa bác sĩ? Và nên áp dụng như thế nào?