Năm 1994, lần đầu tiên Tiếng Việt có tên trên tấm biển bộ môn, đứng ngang hàng với các tiếng Trung, Nhật, Hàn tại trường đại học hàng đầu nước Mỹ. Đằng sau sự công nhận lịch sử đó là nỗ lực thầm lặng và gần một phần ba thế kỷ cống hiến của một người thầy đến từ Hà Nội.

Cơ duyên bất ngờ với “thánh đường” Harvard
Ngô Như Bình sinh ra và lớn lên ở Hà Nội, trong môi trường nuôi dưỡng tình yêu ngôn ngữ từ sớm. Ông từng là sinh viên xuất sắc Khoa Tiếng Nga, Trường Đại học Sư phạm Ngoại ngữ Hà Nội (1968–1973) và sau đó ở lại giảng dạy tại khoa này từ năm 1973 - 1978.
Niềm say mê nghiên cứu ngôn ngữ đã đưa ông tới Moscow, theo học nghiên cứu sinh chuyên ngành lý thuyết ngôn ngữ tiếng Nga tại Viện Tiếng Nga, Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô. Đây là nơi ông đào sâu kiến thức ngôn ngữ học, tích lũy phương pháp giảng dạy tiếng cho người nước ngoài, đồng thời tiếp xúc với môi trường học thuật quốc tế.
Kết thúc chương trình nghiên cứu sinh đầu những năm 1980, ông trở thành giảng viên tại Đại học Lomonosov (Matxcơva), nơi ông vừa giảng dạy vừa nghiên cứu ngôn ngữ học tiếng Việt. Giai đoạn này đặt nền tảng vững chắc cho con đường đưa tiếng Việt ra thế giới sau này.
Cuối những năm 1980, Liên Xô bắt đầu cởi mở hơn, tạo điều kiện giao lưu học thuật quốc tế. Trong một dịp Đại học Lomonosov mời các giáo sư Mỹ sang giảng dạy, Ngô Như Bình nghe các đồng nghiệp chia sẻ rằng nhiều trường đại học ở Mỹ cần giảng viên dạy tiếng Việt.
Năm 1992, ông ứng tuyển vị trí giảng viên tiếng Việt cho Học viện Đông Nam Á học mùa hè (SEASSI) tại Đại học Washington (Seattle) và trúng tuyển. Khi đang dạy tại SEASSI, ông biết tin Harvard tuyển giảng viên tiếng Việt. Ban đầu ông “nộp đơn cho vui” bởi Harvard quá danh tiếng, lại có nhiều người Việt giỏi sống ở Mỹ. Không ngờ, sau nhiều vòng phỏng vấn qua điện thoại, ông chính thức trở thành giảng viên tiếng Việt của Harvard.
Kiến tạo chương trình tiếng Việt chính thức
Một trong những đóng góp nổi bật nhất của GS Ngô Như Bình là chuyên tâm xây dựng chương trình tiếng Việt bài bản tại Harvard. Trước khi ông đến, tiếng Việt đã từng được dạy ở Harvard, nhưng chưa được tổ chức thành một chương trình chính thức, hệ thống hoá và cập nhật phù hợp với thực tiễn ngôn ngữ hiện đại. Từ những sửa đổi giáo trình, thiết kế giáo án cho từng cấp độ đến việc kêu gọi sự công nhận học phần trong bộ môn, ông là người dẫn dắt để tiếng Việt trở thành một lựa chọn học thuật ngang hàng với các ngôn ngữ như Hán, Nhật, Hàn tại Khoa.
“Harvard liên tục dạy tiếng Việt từ năm 1971. Tuy nhiên, đến năm 1994, trường mới chính thức thành lập chương trình tiếng Việt tại bộ môn Ngôn ngữ và Văn minh Đông Á và đứng bình đẳng với 3 thứ tiếng: Trung, Nhật và Hàn”, ông cho hay.
Không chỉ là người tổ chức chương trình, GS Ngô Như Bình trực tiếp biên soạn và hiệu đính giáo trình dành cho sinh viên nước ngoài. Tác phẩm tiêu biểu như Elementary Vietnamese (ed. Revised) được sử dụng rộng rãi không chỉ tại Harvard mà còn ở nhiều trường đại học và trung tâm dạy tiếng Việt khắp thế giới. Những cuốn sách này phản ánh nỗ lực chuyển hoá kinh nghiệm ngôn ngữ học thành tài liệu giảng dạy thực tế, dễ tiếp cận cho sinh viên chưa có nền tảng tiếng Việt.
Dù số lượng sinh viên học tiếng Việt không đông bằng các ngôn ngữ khác, chương trình của ông luôn duy trì một số lượng ổn định từ 20-30 sinh viên mỗi năm. Trong nhiều năm tại Harvard, ông còn kiêm vai trò điều phối, hướng dẫn các giảng viên trẻ, tổ chức hội thảo, và trình bày về chương trình tiếng Việt tại các hội nghị quốc tế, qua đó tạo mạng lưới học thuật giúp chương trình bền vững và phát triển.
Triết lý giảng dạy: Ngôn ngữ là cánh cửa mở ra văn hóa
Đối với GS Ngô Như Bình, dạy tiếng Việt không bao giờ chỉ dừng lại ở việc dạy từ vựng và ngữ pháp. Ông thường nhắn nhủ sinh viên của mình: "Các bạn học tiếng Việt không phải chỉ học một vài từ hay cấu trúc ngữ pháp để nói dăm ba câu chuyện. Các bạn học tiếng Việt là để tìm hiểu về văn hóa, lịch sử Việt Nam. Cho nên, nhiệm vụ của tôi là giúp các bạn có được thứ phương tiện ngôn ngữ ấy".
Triết lý này được thể hiện rõ trong phương pháp giảng dạy của ông. Ông kết hợp nhuần nhuyễn giữa ngôn ngữ học mô tả (descriptive linguistics) và phương pháp giao tiếp (communicative approach). Ông đặc biệt chú trọng vào phát âm, ngữ điệu, và các cấu trúc câu thực tế dùng trong đời sống hàng ngày, giúp sinh viên nhanh chóng phát triển kỹ năng nghe-nói.
Để làm sâu sắc thêm sự hiểu biết của sinh viên, ông còn lồng ghép các yếu tố văn học, lịch sử và nghệ thuật vào bài giảng. Ông cho sinh viên đọc các tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp, thơ Nguyễn Bính, và xem những bộ phim kinh điển như "Người Mỹ trầm lặng".
Nhiều sinh viên của ông sau khi học xong đã thay đổi suy nghĩ, họ nhận ra rằng cuộc chiến tranh trong quá khứ là một điều không may cho cả hai dân tộc.
Người "trả nợ" tiếng Việt
Sau hơn ba thập kỷ cống hiến, di sản của GS Ngô Như Bình không chỉ gói gọn trong khuôn viên Harvard. Đó là một hệ thống tài liệu giảng dạy chuẩn mực, thực tiễn đã và đang được sử dụng trên toàn cầu. Đó là những thế hệ sinh viên, nhiều người trong số họ đã trở thành các nhà nghiên cứu, nhà ngoại giao, chuyên gia có hiểu biết sâu sắc và tình yêu với Việt Nam.
Ông đã thành công trong việc biến tiếng Việt từ một môn học phụ, mang tính thời vụ trở thành một bộ phận học thuật chính thức tại một trong những trường đại học hàng đầu thế giới. Tiếng Việt hiện là ngôn ngữ Đông Nam Á duy nhất được giảng dạy tại Khoa Ngôn ngữ và Văn minh Đông Á của Harvard.
Hơn hết, ông đã bắc một nhịp cầu văn hóa, giúp bạn bè quốc tế hiểu hơn về một Việt Nam không chỉ có chiến tranh, mà còn có một nền văn hóa lâu đời, một ngôn ngữ giàu đẹp và một tâm hồn dân tộc sâu sắc.
Khi được hỏi về hành trình của mình, ông vẫn khiêm tốn nhận mình là người "mắc nợ" và đang nỗ lực "trả nợ" tiếng Việt. “Một người mà không mang ơn tiếng mẹ đẻ của mình thì người ấy khó mà biết trân trọng nó, và từ đấy, khó mà biết trân trọng nền văn hoá của dân tộc mình”, ông chia sẻ.
Nhưng với những gì đã làm được, GS Ngô Như Bình không chỉ trả món nợ ân tình với tiếng mẹ đẻ, mà còn làm rạng danh ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam trên trường quốc tế.