Bố mẹ chiều con cho xem quá nhiều clip "vô tri" trên MXH, chuyên gia cảnh báo: Trẻ dễ bị chi phối tư duy, bắt chước thiếu chọn lọc

Mạng xã hội đã trở thành một phần đời sống hiện đại, song với trẻ em, đó là con dao hai lưỡi. Không chỉ những nội dung độc hại lộ liễu, mà cả những video “vui nhộn”, “dễ thương” cũng có thể gây tổn thương thần kinh, khiến trẻ hình thành thói quen lệ thuộc vào khoái cảm tức thì, đánh mất kỹ năng học tập và tự điều chỉnh cảm xúc.

Khi giải trí có thể ức chế sự phát triển của trẻ

Những video có hiệu ứng nhấp nháy, màu sắc sặc sỡ, âm thanh kích thích thần kinh như tiếng cười, tiếng kêu, tiếng động vật, hoặc nhạc nền dồn dập, đi kèm nội dung rời rạc, hình ảnh phi logic như cá mập đi giày, ly cốc biết múa, thân cây biết nói hay cả toilet hình đầu người,... được tạo dựng từ AI khiến trẻ em xem hàng giờ không dứt. 

Nhiều bài hát, đồ chơi được tạo dựng dựa trên hình ảnh từ những video này khiến trẻ mê đắm, thậm chí là ghi nhớ và lặp đi lặp lại liên tục. Tuy nhiên, những nội dung tưởng chừng “vô tri" này có thể dẫn tới lệch lạc trong phát triển cảm xúc và nhận thức của trẻ.

Những video thiếu nội dung, quá tải hình ảnh, âm thanh và chuyển động nhanh đang thu hút rất nhiều trẻ em. (Ảnh minh hoạ).

Giải thích về vấn đề này, ThS. Nguyễn Thị Ngọc Hà - Khoa Tâm lý Lâm sàng - Phục hồi chức năng Y học cổ truyền, Bệnh viện Nhi Đồng 2 cho biết: “Não bộ của trẻ trong giai đoạn từ 0-7 tuổi đang hình thành mạnh mẽ các kết nối thần kinh và cực kỳ nhạy cảm với kích thích cảm giác, do đó đặc biệt dễ bị thu hút bởi dạng video có yếu tố lặp đi lặp lại và mang tính “giật gân”. Bởi những nội dung này sẽ tạo ra phản ứng dopamine - một chất dẫn truyền thần kinh gây hưng phấn tạm thời, khiến trẻ muốn tiếp tục xem để “cảm thấy vui vẻ” hay thư giãn hơn”.

Tuy nhiên, ThS. Nguyễn Thị Ngọc Hà cảnh báo rằng, đây là dạng khoái cảm tạm thời, không giúp phát triển não bộ về mặt nhận thức hay cảm xúc, thậm chí còn ức chế quá trình học hỏi thực sự vì trẻ quen với việc chỉ tiếp nhận mà không cần tư duy. Cũng như vậy, việc những thông tin nhanh đó làm cho trẻ chỉ thích học/ tiếp cận với các bộ môn thiếu chiều sâu, gây nên tình trạng là trẻ lâu dần mất đi khả năng tự vận động não. 

Nguy cơ lớn nhất là giảm phát triển vỏ não trước trán (prefrontal cortex), vùng chịu trách nhiệm chính cho khả năng kiểm soát hành vi, chú ý, lập kế hoạch và điều tiết cảm xúc. 

“Khi trẻ bị kích thích quá mức bởi các nội dung không lành mạnh, não sẽ dần quen với việc được “thưởng” liên tục, từ đó giảm khả năng chịu đựng sự nản chí, giảm khả năng học tập những điều có chiều sâu, cần sự kiên nhẫn như đọc sách, học toán, hoặc giải quyết vấn đề”, ThS. Nguyễn Thị Ngọc Hà cho hay.

Việc tiếp xúc thường xuyên với những video không lành mạnh có thể khiến trẻ khó duy trì tư duy chiều sâu, kém kiên nhẫn với những hoạt động đòi hỏi tập trung. (Ảnh minh hoạ).

Chưa dừng lại ở đó, ThS. Nguyễn Thị Ngọc Hà cho biết thêm, việc thường xuyên tiếp xúc với các video không lành mạnh còn kéo theo nhiều hệ lụy đối với sự phát triển toàn diện của trẻ. 

Về ngôn ngữ, trẻ dễ rơi vào tình trạng sử dụng vốn từ nghèo nàn, lặp lại những cụm từ vô nghĩa hoặc chậm nói do thiếu tương tác thực tế. Về trí nhớ, não bộ liên tục phải xử lý khối lượng hình ảnh chuyển động khổng lồ nhưng không kịp lưu trữ có hệ thống, khiến trí nhớ ngắn hạn suy giảm. Về cảm xúc, trẻ dễ trở nên cáu gắt, khó kiểm soát bản thân nếu nhu cầu không được đáp ứng ngay lập tức. 

Đáng lo hơn, về hành vi, nhiều trẻ bắt chước những cử chỉ kỳ lạ hoặc hành động sai trái từ video mà không phân biệt được đúng - sai, dần hình thành thói quen xấu và mất khả năng tự kiềm chế.

Khi mạng xã hội định hình tâm lý và nhân cách

Không chỉ đa dạng về hình thức, những nội dung không lành mạnh trên MXH đang len lỏi vào đời sống của trẻ em ngày càng sớm hơn. 

Từ kinh nghiệm lâm sàng, BSCKII. Nguyễn Thanh Sang - Trưởng khoa Tâm lý Lâm sàng - Phục hồi Chức năng Y học cổ truyền, Bệnh viện Nhi Đồng 2 cho biết, độ tuổi trẻ bắt đầu tiếp xúc với các nền tảng mạng xã hội ngày càng giảm trong 10 năm trở lại đây. 

Trẻ em từ 5-7 tuổi đã có khả năng thao tác cơ bản với điện thoại thông minh, và thường xuyên sử dụng mạng xã hội thông qua tài khoản hoặc thiết bị của cha mẹ. Tương tự, tầm 9-12 tuổi, trẻ bắt đầu có tài khoản riêng và sử dụng mạng xã hội như một phần thiết yếu trong đời sống hàng ngày, từ học tập, giải trí đến kết nối xã hội. Đặc biệt, trong độ tuổi này, những ứng dụng có thuật toán gợi ý và cơ chế cuộn nội dung liên tục thường chiếm nhiều thời gian nhất, bởi đặc tính cung cấp thông tin nhanh, hấp dẫn nhưng dễ tạo thói quen lệ thuộc.

   “Một video ngắn có thể khiến con bạn trở nên ngoan trong phút chốc, nhưng hậu quả kéo dài có thể làm sai lệch cả tuổi thơ", bác sĩ Sang nhắc nhở.  (Ảnh minh hoạ).

BSCKII. Nguyễn Thanh Sang cảnh báo rằng, việc trẻ tiếp xúc quá sớm và quá nhiều với những nội dung thiếu lành mạnh trên mạng xã hội không chỉ ảnh hưởng đến hành vi tức thời, mà còn có nguy cơ làm lệch chuẩn giá trị sống, có thể dẫn đến đến so sánh xã hội tiêu cực. 

“Nhiều trẻ tin rằng nổi tiếng hay có nhiều lượt xem là mục tiêu tối thượng. Các em dễ so sánh bản thân với hình mẫu trên mạng, dẫn đến tự ti, chán nản. Không ít trường hợp còn rơi vào lo â u, mất ngủ, giảm tự trọng khi bị bắt nạt trực tuyến hoặc không nhận được sự tương tác như bạn bè. Về lâu dài, điều này cản trở quá trình hình thành bản sắc cá nhân lành mạnh, đặc biệt trong giai đoạn dậy thì”, bác sĩ Sang nhấn mạnh.

Khi trẻ bị mạng xã hội chi phối tư duy, những dấu hiệu thường thấy là lặp lại quan điểm hoặc câu nói đang “trend” mà không hiểu rõ nội dung, bắt chước hành vi, cách ăn mặc hay điệu bộ của các nhân vật ảnh hưởng mà thiếu chọn lọc. 

Nhiều em tự đánh giá bản thân dựa vào số lượt tương tác, cảm xúc lên xuống theo từng lượt thích hay bình luận. Về lâu dài, trẻ có thể mất dần khả năng đưa ra quan điểm cá nhân hoặc ra quyết định một cách độc lập, không bị chi phối bởi mạng xã hội. 

Để giảm thiểu tác động tiêu cực, BSCKII. Nguyễn Thanh Sang khuyến nghị phụ huynh cần chủ động chọn lọc các nội dung mang tính giáo dục, phù hợp độ tuổi, đồng hành khi con xem, đặt câu hỏi và cùng phân tích. Đồng thời xây dựng thói quen “không màn hình” bằng vận động ngoài trời, đọc sách hay trò chuyện. Quan trọng hơn cả là thiết lập thời gian sử dụng thiết bị một cách rõ ràng, nhất quán. 

Ở cấp độ xã hội, ngành giáo dục và truyền thông cũng cần tăng cường giáo dục kỹ năng số, phối hợp chuyên gia tâm lý trong xây dựng nội dung, đẩy mạnh các chiến dịch truyền thông cộng đồng và có chính sách kiểm duyệt chặt chẽ hơn đối với nội dung độc hại.

Bạn có thể quan tâm