Nhiều doanh nghiệp lỡ hẹn đại hội cổ đông trước tháng 7

Quá thời hạn cuối cùng (30/6) theo quy định tại Luật Doanh nghiệp, nhưng trên sàn chứng khoán, số doanh nghiệp chưa tổ chức đại hội đồng cổ đông (ĐHCĐ) còn rất nhiều.

Theo quy định của Luật Doanh nghiệp hiện hành, ĐHCĐ phải họp thường niên trong thời hạn 4 tháng kể từ ngày kết thúc năm tài chính.
Theo đề nghị của hội đồng quản trị, cơ quan đăng ký kinh doanh có thể gia hạn, nhưng không quá 6 tháng kể từ ngày kết thúc năm tài chính...
Điều này có nghĩa là, với những doanh nghiệp có năm tài chính bắt đầu từ ngày 1/1- 31/12, trong trường hợp được cơ quan đăng ký kinh doanh gia hạn, thì thời hạn muộn nhất doanh nghiệp phải họp ĐHCĐ là ngày 30/6.
Thế nhưng, hiện đã sang tháng 7, khác với mọi năm, đến nay, danh sách các doanh nghiệp chưa tiến hành ĐHCĐ vẫn còn rất dài.
Bên cạnh một số tập đoàn, tổng công ty quy mô lớn và hiện là các doanh nghiệp đầu ngành trong lĩnh vực hàng không, dệt may…, nhiều doanh nghiệp quy mô nhỏ trên sàn chứng khoán như CTCP Đầu tư Địa ốc Khang An (KAC), CTCP Bao bì Tiền Giang (BTG)… không kịp tổ chức họp ĐHCĐ thường niên năm 2020 trước ngày 30/6.
Về nguyên nhân, theo thông tin từ nhiều doanh nghiệp trong ngành hàng không, dệt may, là do đến nay công tác chuẩn bị các nội dung đại hội vẫn chưa hoàn thành.
Vì vậy, hội đồng quản trị các công ty đã chốt kế hoạch tổ chức họp ĐHCĐ vào giữa tháng 7 này, thậm chí có trường hợp lịch họp kéo dài sang đầu tháng 8/2020.
Vào tháng 4/2020, tuy đã được Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Tiền Giang gia hạn tổ chức ĐHCĐ đến hết tháng 6/2020, nhưng CTCP Bao bì Tiền Giang đã không kịp họp đúng theo luật định.
Nguyên nhân của tình trạng chậm trễ này theo Công ty là do tình hình dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, nên Công ty xin gia hạn họp ĐHCĐ…
Những tháng đầu năm nay, đại dịch Covid-19 bùng phát và Chính phủ đã thực hiện biện pháp giãn cách xã hội để phòng chống dịch bệnh. Điều này ảnh hưởng đến kế hoạch họp ĐHCĐ của các doanh nghiệp.
Trước thực tế này, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCK) đã gợi mở cho doanh nghiệp chọn hình thức họp trực tuyến.
Tuy nhiên, do điều lệ nhiều công ty chưa đề cập đến hình thức họp này, nên các doanh nghiệp không thể triệu tập ĐHCĐ trực tuyến.
May mắn là tình hình dịch bệnh ở Việt Nam vào đầu tháng 5 cơ bản được kiểm soát, cùng với các biện pháp nới lỏng về giãn cách xã hội, nên nhiều doanh nghiệp đã bắt tay vào công tác chuẩn bị, để khi đời sống kinh tế - xã hội trở lại trạng thái “bình thường mới” thì tổ chức đại hội.
Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp đã không làm được điều này, nên đang đối mặt với nguy cơ bị xử phạt vì vi phạm quy định của Luật Doanh nghiệp…
Việc quá chậm trễ họp ĐHCĐ ảnh hưởng đến quyền lợi của cổ đông, cũng như tác động tiêu cực đến hoạt động của doanh nghiệp.
Trên thực tế, kỳ họp này không chỉ đơn thuần thông qua kế hoạch sản xuất, kinh doanh trong năm để làm cơ sở cho doanh nghiệp triển khai, cũng như các cổ đông giám sát, mà còn là dịp gần như duy nhất trong năm cổ đông có cơ hội trực tiếp gặp gỡ ban lãnh đạo doanh nghiệp để chất vấn, làm rõ những vấn đề nóng mà cổ đông, nhà đầu tư quan tâm.
Mặt khác, ĐHCĐ cũng là dịp để bàn thảo, thông qua các chiến lược tái cấu trúc, đường hướng lớn về phát triển của doanh nghiệp…
Một khi các vấn đề lớn này chậm được thông qua, thì đương nhiên ảnh hưởng không tích cực đến quyền và lợi ích của cổ đông, cũng như đường hướng phát triển của doanh nghiệp…
Chậm đại hội vì covid-19, doanh nghiệp có bị xử phạt?
Trả lời câu hỏi của phóng viên Đầu tư Chứng khoán, có bao nhiêu doanh nghiệp niêm yết, đăng ký giao dịch trên Sở Giao dịch chứng khoán TP.HCM (HOSE) và Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội (HNX) đến nay chưa họp ĐHCĐ, đại diện UBCK cho biết đang theo dõi để thống kê số lượng doanh nghiệp vi phạm, từ đó có hướng xử lý.
“Với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán là công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ mà vi phạm về thời hạn tổ chức họp ĐCHĐ thường niên năm nay, UBCK sẽ xem xét mức độ, tính chất vi phạm để xử phạt. Với các doanh nghiệp niêm yết, đăng ký giao dịch không phải là công ty hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán, UBCK sẽ tổng hợp thông tin, để phối hợp, thông báo với cơ quan đăng ký kinh doanh là sở kế hoạch và đầu tư các tỉnh để xử phạt các doanh nghiệp theo luật định...”, đại diện UBCK cho hay.
Liên quan đến mức xử phạt với các doanh nghiệp vi phạm quy định về thời hạn tổ chức họp ĐHCĐ thường niên, Nghị định 50/2016/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kế hoạch và đầu tư, quy định: phạt tiền từ 5 - 10 triệu đồng đối với hành vi không tiến hành họp ĐHCĐ thường niên trong thời hạn quy định…
Trên thực tế, để tháo gỡ cho các doanh nghiệp gặp khó khăn bởi dịch bệnh Covid-19, Bộ Tài chính đã kiến nghị Chính phủ gia hạn thời hạn họp ĐHCĐ thường niên năm 2020 tới trước ngày 30/9, thay vì 30/6 như quy định hiện hành. Tuy nhiên, đề xuất này chưa được cấp có thẩm quyền thông qua.
Câu hỏi đặt ra là liệu cơ quan quản lý có căn cứ vào thực tế là vì lý do bất khả kháng nên doanh nghiệp không thể tiến hành họp ĐHCĐ như luật định để miễn hình phạt cho họ?
Một chuyên gia trong lĩnh vực pháp luật về doanh nghiệp cho rằng, với tình huống hiện nay là không thể, vì Luật Doanh nghiệp hiện hành không có cơ chế cho sự linh hoạt này, nên các doanh nghiệp sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính.

Loạt khó khăn chực chờ Vietinbank trong năm 2020

(Vietnamdaily) - Các quy định mới của NHNN sẽ hạn chế khả năng mở rộng biên lãi ròng của các ngân hàng quốc doanh trong khi tác động tới các ngân hàng tư nhân sẽ là đa chiều.

Kết phiên giao dịch cuối năm 2019, cổ phiếu CTG của Vietinbank đóng cửa tại mức 20.900 đồng/cp, ghi nhận mức tăng 11% trong vòng 1 năm qua.

Đây không phải là cổ phiếu có mức giá quá cao nhưng lại không được Chứng khoán Rồng Việt (VDSC) đánh giá cao để đầu tư trong năm 2020.

Tình thế của VietinBank: Đi trước, về sau

Có nhiều lý do để nhìn lại, khi bốn năm qua Quốc hội vẫn không thay đổi cơ chế tăng vốn tại VietinBank.

Tinh the cua VietinBank: Di truoc, ve sau
Ảnh minh họa.
Tại kỳ họp Quốc hội lần này, một trong những nội dung được giới đầu tư chú ý là phương án tăng vốn điều lệ cho các ngân hàng thương mại nhà nước, gồm các thành viên mà Nhà nước nắm trên 50% cổ phần.
Nếu Agribank có tờ trình cụ thể của Chính phủ về phương án bố trí khoảng 3.500 tỷ đồng lợi nhuận giữ lại để tăng vốn, thì ba thành viên còn lại (gồm Vietcombank, BIDV và VietinBank) chưa có thông tin công bố chi tiết về nội dung trình Quốc hội hay không; cụ thể tại từng trường hợp như thế nào.
Cụ thể tại từng trường hợp, vì trong nhóm trên (“Big 4”) có những đặc điểm khác nhau. Trong đó, Ngân hàng Công thương Việt Nam (VietinBank) khá đặc biệt.
Khẩu phần của cơ chế
Từ trước và cho đến nay, trong “Big 4”, VietinBank là thành viên duy nhất đã sớm hoàn chỉnh mô hình sau cổ phần hóa.
Sau khi cổ phần hóa, giai đoạn từ 2009, ngân hàng này nhanh chóng lần lượt dùng hết các dư địa mà mô hình - cơ chế Nhà nước cho phép. Tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài lấp đầy; giới hạn tỷ lệ sở hữu của Nhà nước khai thác tối đa, xuống còn gần 65%.
Những đặc điểm trên khiến VietinBank trở nên đặc biệt trong nhóm, khi đặt ra yêu cầu tăng vốn gắn với cơ chế.
Sau khi dùng hết các giới hạn trên, vốn chủ sở hữu “Thánh Gióng”, ngân hàng này nhanh chóng mở rộng quy mô tín dụng, tổng tài sản. Một so sánh, nếu nhìn cả quá trình nhiều năm qua, VietinBank từng có lợi nhuận thấp hơn nhiều lần so với Vietcombank; nhưng sau cổ phần hóa, giai đoạn trên, đây trở thành hiện tượng rút ngắn và gia tăng lợi nhuận, thậm chí có những năm vươn lên dẫn đầu toàn hệ thống.
Thế nhưng, cũng nhìn cả một quá trình, nhất là khi đặt trong chiến lược phát triển ngành ngân hàng đến năm 2020 mà Thủ tướng đã phê duyệt, VietinBank nằm ở tình thế đi trước, về sau.
Cụ thể, họ đi trước về việc sử dụng hết các khẩu phần cơ chế trong tăng vốn và các giới hạn về sở hữu, nhưng lại về sau (và hiện chưa rõ khi nào đến đích) ở các chỉ tiêu quan trọng.
Đó là, từ năm 2016, Vietcombank đã tất toán xong toàn bộ nợ bán sang Công ty Quản lý tài sản các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC). Sau đó đến lượt BIDV, rồi ngay cả Agribank cũng cán đích này dù khó khăn về vốn nổi bật hơn (quy mô thấp nhất trong nhóm và nợ xấu từng ở mức cao).
Tiếp đến, từ 2018 rồi 2019, đầu 2020, một loạt khoảng 20 ngân hàng thương mại đã đáp ứng xong yêu cầu đủ vốn, tỷ lệ an toàn vốn (CAR) theo tiêu chuẩn Basel II, thậm chí một số thành viên còn chủ động cả 3 trụ cột của Basel II.
Còn VietinBank, đi trước và nhanh chóng tích tụ được nguồn lực lớn mà cơ chế - mô hình cổ phần hóa mang lại, nhưng đến nay vẫn chưa rõ khi nào về được hai đích quan trọng trên.
Điểm được chú ý, cơ chế của chính sách cho các ngân hàng sau cổ phần hóa đều công bằng như nhau, khẩu phần như nhau. Và có lẽ đây là một trong những lý do mà Quốc hội chưa có thay đổi để “tạo điều kiện” hay không.
Tinh the cua VietinBank: Di truoc, ve sau-Hinh-2
Giai đoạn môi trường rủi ro và nhiều bất ổn bộc lộ trong nền kinh tế, VietinBank vận động nhiều và liên tục tăng mạnh tổng tài sản - Nguồn: VietinBank
Nguyên do của nội tại
Sẽ hợp lý nếu như VietinBank là thành viên đầu tiên cán được hai đích trên. Vì họ là trường hợp đầu tiên, sớm và duy nhất dùng hết cơ chế cho phép. Họ cũng đã sớm tích tụ được nguồn lực vốn chủ sở hữu rất lớn, tăng rất nhanh sau cổ phần hóa.
Nhưng nguyên do vì sao đi trước, về sau? Có phải vì cơ chế không đáp ứng yêu cầu tăng vốn cho họ hay không?
Trả lời những câu hỏi trên, có một miếng ghép thuộc về nội tại ngân hàng.
Năm 2009, VietinBank cổ phần hóa, niêm yết cổ phiếu trên sàn, lấp đầy “room” sở hữu nước ngoài… Nguồn lực vốn chủ sở hữu từ 18.170 tỷ đồng năm 2010 đột biến lên 55.013 tỷ đồng sau 4 năm. Quá trình tăng tốc của ngân hàng này nằm ở đây.
Nhưng, có một điểm về bối cảnh. Đó cũng là giai đoạn nền kinh tế chịu ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008, rồi ngay sau đó là bất ổn hệ thống ngân hàng và môi trường kinh doanh, với nóng bỏng lạm phát, tỷ giá, thị trường vàng, rồi nợ xấu 2010-2014.
Thời điểm này, khi yêu cầu tăng vốn cho VietinBank đặt ra và được cho là cấp bách, nền kinh tế đang chịu ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, giãn cách xã hội vừa trải qua.
Khi dịch bùng phát, phản ứng thông thường của người dân là hạn chế đi lại, hạn chế tiếp xúc và giao kết. Bối cảnh kinh tế giai đoạn 2010-2014 nói trên cũng vậy, môi trường rủi ro bộc lộ, nhiều ngân hàng tạm chững lãi, phòng thủ thay vì đẩy mạnh, mở rộng mạnh mẽ các hoạt động, như một lựa chọn để hạn chế khả năng “lây nhiễm” nợ xấu, rủi ro…
Thế nhưng, đó lại chính là giai đoạn VietinBank tăng trưởng bùng nổ các hoạt động.
Tinh the cua VietinBank: Di truoc, ve sau-Hinh-3
 Dư nợ tín dụng cũng tăng trưởng hơn gấp đôi trong giai đoạn đó... Nguồn: VietinBank
Cụ thể, tổng tài sản của họ năm 2010 mới 367.731 tỷ đồng thì chỉ sau 4 năm đã vọt lên tới 661.132 tỷ đồng, tăng trưởng gần 80%.
Dư nợ tín dụng cũng tăng trưởng hơn gấp đôi, từ 234.205 tỷ đồng năm 2010 lên tới 542.685 tỷ đồng năm 2014.
Nhìn sang hiệu quả, trong khi tổng tài sản và dư nợ tín dụng tăng trưởng mạnh như vậy, nhưng lợi nhuận trước thuế của VietinBank lại… sụt giảm liên tiếp ba năm 2012, 2013 và 2014.
Tinh the cua VietinBank: Di truoc, ve sau-Hinh-4
 Thế nhưng, lợi nhuận lại không tăng theo mà liên tiếp sụt giảm - Nguồn: VietinBank
Khi mà tổng tài sản tăng rất mạnh, tín dụng tăng rất mạnh, nhưng lợi nhuận lại liên tiếp sụt giảm thì dẫn đến một góc nhìn: chất lượng tài sản có vấn đề. Theo đó, phản ứng phòng thủ trong môi trường xấu để hạn chế bị “lây nhiễm” nợ xấu, rủi ro mà nhiều ngân hàng khác thực hiện được xem là một dẫn chiếu tham khảo. Còn VietinBank, như trên, lại khác.
Môi trường ô nhiễm, càng vận động mạnh và vận động nhiều thì cơ thể càng hứng chịu. Với ngân hàng, khi vận động nhiều mà chất lượng tài sản kém đi, lợi nhuận càng giảm sút thì có vấn đề, một mặt tác động ngay và rõ dần ở tỷ lệ an toàn vốn (CAR). Việc xử lý chất lượng tài sản sau đó kéo dài, cải thiện CAR vì thế cũng lâu dài. Tại VietinBank, đến nay CAR đang là điểm yếu chính.
Như vậy, khi nhìn vào nội tại ngân hàng cả một quá trình, nguyên do khó khăn và tình thế của VietinBank hiện nay không hẳn do cơ chế Nhà nước thiết lập eo hẹp, hoặc không tạo điều kiện.
Cơ chế là công bằng giữa các thành viên. Nếu khác đi ở một trường hợp nào đó sẽ dẫn đến lệch về công bằng cạnh tranh.
Cho đến nay, Quốc hội vẫn chưa từng có thông tin nào gợi mở là sẽ sửa cơ chế hoặc tạo điều kiện nào đó cụ thể. Bởi như trên, không hẳn khó khăn, yêu cầu cấp bách là do cơ chế Nhà nước.

Hàng ngàn người đứng xem thử thử hạt nhân mà không biết hậu quả

(VietnamDaily) - Theo một thống kê, từ năm 1945 - 2008, Mỹ tiến hành hơn 1.000 vụ thử hạt nhân. Trong một số vụ thử nghiệm vũ khí hạt nhân, hàng ngàn người đứng xem mà không hay biết tác hại khôn lường của việc đang làm sẽ khiến bản thân bị nhiễm phóng xạ.

Hang ngan nguoi dung xem thu thu hat nhan ma khong biet hau qua
 Mỹ là một trong những nước tiến hành nhiều vụ thử hạt nhân nhất thế giới. Một thống kê cho thấy từ năm 1945 - 2008, Mỹ tiến hành hơn 1.000 vụ thử vũ khí nguyên tử.