Ngày 25/11, Quốc hội nghe Bộ trưởng Bộ Y tế trình bày tờ trình về Chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia về chăm sóc sức khỏe, dân số và phát triển giai đoạn 2026-2035.
Mọi người dân đều được quản lý, chăm sóc sức khỏe ban đầu
Theo tờ trình của Chính phủ, đối tượng thụ hưởng của Chương trình là toàn bộ người dân Việt Nam, trong đó ưu tiên các đối tượng: người sống ở khu vực khó khăn, miền núi, biên giới, biển đảo; người yếu thế; bà mẹ, trẻ em; thanh thiếu niên; người có công với cách mạng; người cao tuổi.
Tờ trình cũng thể hiện tổng kinh phí thực hiện chương trình trong toàn giai đoạn 2026-2035 là 125.478 tỉ đồng.
Trong đó, giai đoạn 2026-2030 là 88.635 tỉ đồng (ngân sách Trung ương 68.000 tỉ đồng, ngân sách địa phương 20.041 tỉ đồng). Tổng vốn giai đoạn 2031-2035 dự kiến 36.843 tỉ đồng.
Bộ trưởng Bộ Y tế Đào Hồng Lan cho biết, thời gian thực hiện chương trình 10 năm, từ năm 2026 đến hết năm 2035, chia thành 2 giai đoạn: 2026-2030 và 2031-2035.
Theo đó, ngân sách trung ương hỗ trợ các địa phương nhận bổ sung cân đối từ ngân sách trung ương. Ưu tiên hỗ trợ ngân sách trung ương thực hiện chương trình trên địa bàn có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vùng biên giới, biển đảo.
Việc phân bổ ngân sách nhà nước thực hiện Chương trình bảo đảm phù hợp với mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ, nội dung hoạt động của Chương trình, kế hoạch hằng năm, tình hình thực tế và khả năng cân đối của ngân sách nhà nước.
Trong quá trình thực hiện, Chính phủ tiếp tục cân đối ngân sách trung ương trình cấp có thẩm quyền xem xét ưu tiên bổ sung vốn cho Chương trình.
Mục tiêu tổng quát của chương trình là nâng cao sức khỏe thể chất, tinh thần, tầm vóc, tuổi thọ và chất lượng cuộc sống của nhân dân; bảo đảm mọi người dân đều được quản lý, chăm sóc sức khỏe ban đầu chất lượng, người dân chủ động tự chăm sóc và nâng cao sức khỏe; hạn chế bệnh tật, được phòng bệnh từ sớm, từ xa, ngay tại cơ sở.
Ngoài ra, chương trình cũng nhằm giải quyết các vấn đề dân số ưu tiên, chủ động thích ứng với già hóa, nâng cao chất lượng dân số; tăng cường chăm sóc cho các nhóm yếu thế.
Chương trình cũng đưa ra 10 mục tiêu cụ thể, trong đó có tỷ lệ người dân được lập sổ sức khỏe điện tử và quản lý sức khỏe theo vòng đời đến năm 2030 đạt 100% và duy trì đến năm 2035;
Tỷ lệ trạm y tế xã, phường, đặc khu trên toàn quốc triển khai thực hiện dự phòng, quản lý, điều trị một số bệnh không lây nhiễm đầy đủ theo quy trình được hướng dẫn đến năm 2030 đạt 100% và duy trì đến năm 2035.
Chính phủ cũng đặt mục tiêu số lượng người yếu thế, người dễ bị tổn thương được tiếp cận, sử dụng dịch vụ tại các cơ sở chăm sóc xã hội đến năm 2030 tăng thêm 70% so với năm 2025 và đến năm 2035 tăng thêm 90% so với năm 2030.
Chương trình chia làm 5 dự án thành phần trong đó có nâng cao hiệu quả hệ thống phòng bệnh và nâng cao sức khỏe; Nâng cao chất lượng chăm sóc xã hội cho người yếu thế.
Về cơ chế, chính sách đặc thù, Quốc hội sẽ quyết định tổng mức dự toán cho Chương trình; Thủ tướng Chính phủ giao tổng dự toán cho cấp tỉnh và điều chỉnh khi cần thiết; cấp tỉnh chịu trách nhiệm phân bổ cho cấp xã trên cơ sở nguyên tắc phân cấp, phân quyền.
Chính phủ tăng cường đôn đốc kiểm tra và giám sát để bảo đảm thực hiện kịp thời, hiệu quả, phù hợp với tình hình và đáp ứng yêu cầu thực tiễn; Các cơ chế, chính sách đặc thù khác được ban hành theo trình tự, thủ tục rút gọn.
Rà soát, chọn nội dung cốt lõi để tránh lãng phí
Trình bày tờ trình thẩm tra nội dung trên, Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa và Xã hội Nguyễn Đắc Vinh cho biết, Ủy ban cơ bản tán thành với tên gọi, đối tượng thụ hưởng, tổng mức đầu tư giai đoạn 2026 - 2035, mục tiêu và các dự án thành phần của Chương trình theo đề xuất của Chính phủ.
Đề nghị Chính phủ xác định rõ nguồn vốn, bảo đảm bố trí đủ nguồn vốn tối thiểu; bảo đảm cân đối vốn hợp lý trong thực hiện hai mục tiêu quan trọng của chương trình là chăm sóc sức khỏe và dân số và phát triển, đánh giá sát khả năng huy động nguồn vốn ngân sách địa phương và tính toán đề xuất mức bố trí vốn ngân sách địa phương phù hợp hơn với tình hình thực tiễn, nhất là với địa phương khó khăn trong bố trí vốn đối ứng.
Cùng đó, tiếp tục rà soát mục tiêu chung, mục tiêu cụ thể, các nội dung hoạt động của từng tiểu dự án để bảo đảm tính thống nhất, thuận lợi cho việc kiểm tra, giám sát và đánh giá hiệu quả kinh tế - xã hội của chương trình.
Về các dự án của chương trình, đề nghị rà soát, lựa chọn những nội dung cốt lõi, quan trọng, tránh dàn trải, lãng phí nguồn lực.