Những tướng tốt kỳ lạ của Đức Phật

Đức Phật - con người toàn diện, không chỉ về mặt trí tuệ và đức hạnh mà còn về mặt hình thể.

Các kinh điển Nam truyền cũng như Bắc truyền đều có nói đến 32 tướng tốt của đức Phật một cách đầy đủ, những tướng này được phát hiện lúc mới đản sanh, do các vị tướng sư xác định.
Sau này Đức Phật cũng xác nhận có đủ 32 tướng qua các kinh lưu truyền. Theo quan điểm tướng pháp Ấn Độ cổ, ai có đủ 32 tướng tốt thì sẽ làm vua thống lãnh thiên hạ, nếu xuất gia thì sẽ thành Phật. Sự kiện thái tử Tất Đạt Đa có đủ 32 tướng đã báo hiệu Ngài không phải là một người thường. Điều đó trở thành hiện thực khi Ngài xuất gia tìm đạo và đã thành tựu được quả vị Phật Đà.
Thế nào là tướng tốt?
Tướng tốt theo quan điểm tướng pháp Á Đông không phải là quan niệm về cái đẹp thẩm mỹ, mà chính là cái đẹp của đức hạnh biểu hiện qua hình thể. Đời sống sung túc, tốt đẹp của một người được biểu hiện qua hình tướng đắc cách hay không, những tướng tốt này lại có nguồn gốc sâu xa liên quan đến phúc đức của ông bà cha mẹ hay của chính mình trong quá khứ. Điều này được đúc kết dựa theo kinh nghiệm và quan sát thực tế mà rút ra được những quy luật về phương pháp.
Đối với Phật giáo, thân tướng đắc cách tốt đẹp, biểu hiện đời sống tốt đẹp, qua lý thuyết chánh báo đi đôi với y báo. Tất cả những điều kiện tốt đẹp đó đều do công đức tích lũy trong quá khứ, theo quy luật nhân quả: gieo nhân nào gặt quả nấy. Đức Phật có đủ 32 tướng tốt có nghĩa là Ngài đã tích lũy vô lượng công đức trong nhiều kiếp, này thừa hướng kết quả của những công đức đó mà thôi.
Quan niệm về tướng tốt và xấu như thế nào, theo tiêu chuẩn nào, thì thuộc vào kinh nghiệm thực tế và truyền thống văn hóa của mỗi dân tộc, của mỗi đất nước. Có những tướng theo quan điểm Ấn Độ là tốt nhưng đối với chúng ta thì xấu hoặc kì dị. Do đó cần phải rộng lượng khi nhận định về tướng pháp.
Những tướng tốt của đức Phật
Ba mươi hai tướng tốt của đức Phật được đề cập, khá nhiều trong kinh, trong Nam tạng cũng như Bắc tạng như: kinh Sơ Đại Bổn Duyên (Trường A Hàm), kinh Tâm Thập Nhị Tướng (Trung A Hàm), kinh Đại Bổn (Trường Bộ), kinh Tướng (Trường Bộ), kinh Tập, kinh Tiểu Bộ... và một số rải rác trong kinh tạng Đại Thừa...
Tham khảo 32 tướng tốt của đức Phật qua các kinh trên, có khá nhiều sự khác nhau, có những tướng kinh này có, kinh kia không và ngược lại. Có một số tướng quan điểm khác nhau. Như kinh Sơ Đại Bổn Duyên có tướng chữ "vạn" ở ngực nhưng các kinh khác không có. Kinh Tướng (Trường Bộ) không có tướng nhục kế như hầu hết các kinh khác. Mặt khác, cùng là kinh Nam truyền vẫn có những quan điểm khác nhau, Bắc truyền cũng vậy. Có những tướng sai biệt lệch lạc khá xa như tướng 18 trong Sơ Đại Bổn Duyên là tướng 7 lỗ trong người đều đầy đặn bằng phẳng. Trong kinh Tướng thì nói 7 chỗ trong người, tướng thứ 3 trong Sơ Đại Bổn Duyên nói có màng lưới mỏng giữa kẻ chân tay như chân ngỗng chúa. Nhưng kinh Tam Thập Nhị Tướng thì cho là như chim nhạn. Tạng Pàli kinh Lakkhana thì nói lòng bàn tay bàn chân có chỉ giăng như lưới...
Từ những sai biệt đó chúng ta khó mà xác định kinh nào là nói đúng và đủ 32 tướng, nếu ngây thơ tin vào 32 tướng của riêng một kinh nào thì ta khó mà hình dung nổi hình dáng của đức Phật như thế nào.
Mặc dù gặp những khó khăn như trên, nhưng qua những tướng mà nhiều kinh đều nói giống nhau, qua thực tế hình tướng đức Phật đang lưu truyền, chúng ta có thể rút ra được những tướng tốt của đức Phật như sau:
1. Lòng bàn chân bằng phẳng.
2. Dưới lòng bàn chân có hình bánh xe ngàn căm.
3. Gót chân đầy đặn.
4. Ngón tay, ngón chân thon dài.
5. Tay chân mềm mại.
6. Đứng thẳng tay dài đến gối.
7. Lông màu xanh biếc và xoáy tròn về bên phải.
8. Da mịn màng trơn láng bụi không bám.
9. Da màu vàng như màu vàng y.
10. Tướng mã âm tàng.
11. Bụng thon.
12. Ngực nở nang.
13. thân hình cao lớn.
14. Có đủ 40 cái răng.
15. Răng bằng và đều khít.
16. Răng trắng và bóng.
17. Tiếng nói trong trẻo vang xa.
18. Ngực có chữ "vạn".
19. Vai ngang và đều đặn.
20. Lưỡi dài và rộng.
21. Mắt xanh và đẹp.
22. Có một sợi lông trắng giữa 2 mày xoáy tròn xoay về bên phải.
23. Đỉnh đầu có nhục kế.
Một số tướng tốt ở trên phù hợp với quan điểm tướng tốt của Trung Hoa và Việt Nam. Một số tướng tốt còn lại có phần sai biệt giữa các kinh, chúng tôi không dẫn ra đây.
 
Biểu tượng của một số tướng tốt
Khảo sát về 32 tướng tốt của một bậc đại nhân theo quan điểm Ấn Độ, có khá nhiều loại tướng pháp mang ý nghĩa biểu tượng, có ý nghĩa tướng pháp đích thực. Chính đức Phật cũng sử dụng ý niệm và niềm tin vào tướng tốt của mọi người để truyền đạt lý tưởng "Diệt trừ điều ác, tăng trưởng điều thiện". Các kinh Lakkhana Sutra, kinh Tam Thập Nhị Tướng, đều có lý giải nguyên nhân, do có công đức gì mà được tướng tốt đó, giảng giải khá chi tiết, ví dụ:
1) Tướng nhục kế (Usnissa): Tướng này là một cục thịt nổi trên đỉnh đầu, do công đức hiếu kính cha mẹ, kính thuận sư trưởng và các bậc trưởng thượng mà được thành tựu. Quan điểm của Đại thừa thì cho rằng tướng này biểu thị cho trí tuệ của Phật, từ tướng nhục kế này còn triển khai thêm tướng phụ là Vô kiến đảnh tướng, là tướng nằm trên đỉnh đầu nhưng không thể thấy được bằng mắt thường, chỉ có tuệ nhãn mới thấy. Theo diễn giải của các nhà Phật học Đại thừa thì dưới cái nhìn của tuệ nhãn, tướng này có hình tướng bánh xa ngàn căm, có nơi nói như hoa sen ngàn cánh, biểu thị cho trí tuệ, qua tướng này có thể phân biệt được công đức tu hành nhiều hay ít.
2) Tướng chữ "vạn" (Svastika): Trong các kinh tạng Pàli không thấy nói tướng chữ "vạn", các bộ A Hàm chỉ có kinh Sơ Đại Bổn Duyên nói đến, có thể tướng này được thêm vào về sau, cho nên không nói do tạo công đức gì mà có. Có 2 quan điểm giải thích về tướng chữ "vạn" như sau:
1. Chữ "vạn" có nghĩa là Kiết tường, là một loại chữ linh thiêng của Ấn Độ, chữ linh này có khả năng đem đến mọi điều tốt lành may mắn (Từ điển PH, ĐTC)
2. Chữ "vạn" biểu thị công đức vô lượng, từ bi vô lượng và trí tuệ vô lượng của Phật. Đó là biểu phù hiệu chứ không phải chữ viết. (TĐ PHVN, TMC). Có lẽ lúc đầu nó là một linh tự, về sau nghĩa gốc của nó biến đổi thành ý nghĩa biểu tượng cho sự viên mãn tâm, trí và đức. Hai tướng này đã trở thành biểu tượng gắn liền với các tượng Phật đang thờ hiện nay, đã được nhân dân hóa.
Ngoài hai tướng trên, một số kinh còn cho rằng đức Phật còn có tướng hào quang tỏa ra chung quanh thân thể khoảng một tầm. Tướng này không thấy nói tới trong các kinh mà chúng tôi đã trích dẫn, mà đề cập trong Luận tạng Pàli Katha-Vatthu.
3) Tướng lưỡi rộng dài (Pahutaiivaho hoti) được diễn giải là lưỡi của đức Phật có thể liếm đụng tai được... Tướng này do công đức luôn nói lời chân thật diệu dàng, không thóa mạ người... mà có tướng lưỡi rộng dài. Trong kinh Di Đà có nói "Chư Phật mười phương le lưỡi rộng dài che cả tam thiên Đại Thiên thế giới mà nói lời thành thật rằng..." Do đó tướng lưỡi rộng dài biểu tượng cho tính ngay thật nói năng đúng mức, không xảo trá.
Trên trình bày một số tướng mang tính biểu tượng tiêu biểu, trong phạm vi bài này không thể đề cập nhiều hơn. Tuy nhiên cũng đủ cho ta thấy ngoài các nghĩa thông thường, các tướng tốt còn có ý nghĩa sâu xa hơn và cao đẹp hơn.
Vẻ đẹp hình thể của đức Phật
Nếu bỏ qua một bên tướng tốt có tính cách bất định do các bộ phái ghi nhớ không chính xác, hoặc thêm bớt tùy tiện, bỏ qua một bên các tướng tốt có tính chất biểu tượng tôn giáo và sự tôn sùng của các đệ tử, ta có thể hình dung đức Phật là một đấng nam nhi cao ráo đẹp đẽ, cân đối, oai nghiêm thay đổi thái độ, đón tiếp Ngài nồng hậu, khi Ngài lên tiếng thì mọi người đều bị chinh phục hoàn toàn. Theo các kinh điển, hình tướng đẹp đẽ của Ngài đã đóng góp rất nhiều trên con đường hoằng hóa. Thanh niêm Vakkali con của một vị trưởng giả, đến nghe Phật thuyết pháp, nhìn thấy thân tướng đẹp đẽ của Ngài, Vakkali không nghe gì cả và chỉ chiêm ngưỡng thân tướng của Phật mà thôi, sau đó xin xuất gia để được gần Phật. Có lần đức Phật buộc Vakkali phải ở cách xa tịnh thất của Ngài, Vakkali buồn rầu, thất vọng và muốn tự tử. Nhân đó đức Phật giảng giải về sự vô thường của xác thân tứ đại, nhờ đó Vakkali giác ngộ. Quần chúng cũng vậy, họ ái mộ và đi theo Ngài chưa hẳn nhờ vào tài thuyết pháp của Ngài, mà còn nhờ vào thân tướng và phong cách đẹp đẽ siêu tuyệt của Ngài.
32 tướng tốt của đức Phật được các kinh tạng Nam truyền và Bắc truyền nói đến rất phong phú. Điều đó khẳng định nét đặc thù trong đức tánh và đức tướng của đức Phật và cũng đem lại niềm hứng khởi cho các nghệ nhân cũng như các đệ tử về sau. Càng ngày hình ảnh của đức Phật được tái tạo, được tô điểm thêm do lòng kính trọng vô biên của đệ tử, hình ảnh của Ngài dần dần được siêu nhiên hóa. Thời kỳ Phật giáo Đại thừa phát triển, thân tướng của Ngài trở thành đối tượng triết học, hay trở thành biểu tượng của lý tưởng qua thuyết Tam thân Phật: Pháp thân - Báo thân - Ứng thân.
Dù cho thân tướng của Ngài được quan niệm như một người thường hay bậc thánh siêu nhiên, thì sự kính ngưỡng, lòng thành tín của con người đối với Ngài không thay đổi. Bởi lẽ ai cũng thấy được rằng giá trị của đức Phật không phải ở thân tướng mà ở sự giải thoát mà giáo lý của Ngài đem lại.
Con đường dẫn đến chân lý đã được mở ra, niềm hạnh phúc, sự giải thoát sẽ đến với những ai nỗ lực vươn tới, qua thực nghiệm chứ không phải qua sắc tướng như kinh Kim Cang đã nói: Nhược dĩ sắc kiến ngã, dĩ âm thanh cầu ngã, thị nhơn hành tà đạo, bất năng kiến Như Lai.

Bồ-tát giữa Sài Gòn

Lần tôi về quê chuẩn bị lo việc vợ sắp lâm bồn thì ông bà chủ nhà trọ lại giúi vào tay tôi tờ bạc năm trăm ngàn gửi cho mẹ và bé.

Chiếc cầu thang sần sùi đã in vô vàn dấu chân đó nối liền với gác gỗ và chợ. Căn gác nhàu nhĩ nơi tôi ở trọ đã nhiều năm qua đang rung gió gọi mùa thu về. Bao lượt người đến rồi đi, đi rồi trở lại nghe mùi gỗ sực bụi tháng năm.

Hiểu đúng lễ xá tội vong nhân và Vu lan báo hiếu

Hai lễ này là khác nhau, tuy nhiên trong một số trường hợp lại được hiểu và hành làm một.

Nhiều người Việt Nam đã biết về lễ Xá tội vong nhân, bởi vì nó là truyền thống của dân tộc, gắn với tục cúng cháo, nẻ, hoa quả…và đặc biệt đối với trẻ con trước đây ở các vùng quê là được cướp cháo xí. Lễ xá tội vong nhân đã ăn sâu vào truyền thống văn hóa dân tộc Việt, thậm chí lễ này còn là lễ quan trọng nhất, bởi: "Cúng cả năm không bằng rằm tháng bảy”.

Cần khắc phục những cách hiểu mang tính mê tín, cách hành tốn kém và lãng phí trong Lễ xá tội vong nhân và Vu lan báo hiếu. Ảnh minh họa.
 Cần khắc phục những cách hiểu mang tính mê tín, cách hành tốn kém và lãng phí trong Lễ xá tội vong nhân và Vu lan báo hiếu. Ảnh minh họa.

Theo cách hiểu của văn hóa tín ngưỡng, lễ xá tội vong nhân là để cầu cúng cho các cô hồn (những vong linh không/chưa được thờ cúng ở một gia tiên nào). Văn cúng của lễ này thường dùng bài "Văn tế thập loại chúng sinh” của Nguyễn Du, bản văn này còn có tên là "Chiêu hồn thập loại chúng sinh”, nội dung của bản văn đã thể hiện sự kết hợp giữa giá trị nhân văn cao cả của người Việt với văn hóa Phật giáo. Điều này được thể hiện rõ nhất ở các câu, từ câu 157 đến hết bài (câu 184): "Kiếp phù sinh như hình như ảnh/Có chữ rằng "vạn cảnh giai không”/Ai ai lấy Phật làm lòng/Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi”.

Người Việt trong truyền thống cho rằng ngày 15/7 âm lịch là ngày "mở cửa ngục” để các cô hồn nhận đồ cúng tế cũng như quần áo, và một ít tiền vàng, mã, do vậy ngày này là ngày xá tội vong nhân. Khi thực hiện lễ này người Việt cũng nhân đó mà làm lễ cầu siêu cho gia tiên tiền tổ và gửi biếu chút vàng mã cho các chân linh gia tiên nhằm thể hiện sự hiếu thảo của con cháu đối với các bậc sinh thành.

Lễ Vu lan báo hiếu cũng là một lễ của Phật giáo. Trong Phật giáo lễ này có vai trò hết sức quan trọng bởi lẽ nó thể hiện một trong "Tứ đại trọng ân” của nhà Phật: 1. Ân Cha Mẹ; 2. Ân Tam Bảo Sư trưởng; 3. Ân quốc gia xã hội; 4. Ân chúng sinh vạn loại.

Ân Cha Mẹ là ân đầu tiên trong tứ ân, Cha Mẹ ở đây không phải chỉ là người sinh thành ra mình mà có thể hiểu là chúng sinh. Bởi khi còn tại thế, một lần trên đường đi thuyết pháp Đức Thích Ca Mâu Ni gặp một đống xương khô, Người đã quỳ xuống bái, và Người đã giải thích cho các đệ từ rằng biết đâu người này kiếp trước là cha mẹ ta.

Về lịch sử lễ Vu lan báo hiếu gắn liền với câu chuyện về ngài Mục Kiền Liên cùng tăng đoàn cứu mẹ ông nơi hỏa ngục. Việc cứu mẹ là dựa trên nguyện lực của Mục Kiền Liên và các vị cao tăng, dựa trên quan niệm về sự cứu vớt của Phật giáo chứ không phải là "phá ngục cướp tù” như một vài người từng chê trách.

Câu chuyện về Mục Kiền Liên và ân Cha Mẹ trong "Tứ đại trọng ân” đã làm nên mùa Vu lan báo hiếu của Phật giáo với ý nghĩa tâm linh, ý nghĩa đạo đức, ý nghĩa xã hội sâu sắc và có tính phổ quát. Bởi đạo đức xã hội, văn hóa, tín ngưỡng hay tôn giáo cũng đều thừa nhận và coi trọng công ơn của các thế hệ trước, của các bậc sinh thành.

Trong những năm gần đây việc cúng xá tội vong nhân cũng như lễ Vu lan báo hiếu diễn ra sôi nổi ở nhiều nơi với quy mô, nghi lễ khá lớn. Hai lễ này là khác nhau, tuy nhiên trong một số trường hợp lại được hiểu và hành làm một. Điều đáng quan tâm là lễ xá tội vong nhân với những nghi thức phức tạp, với những lễ vật - nhất là vàng mã tốn kém đã làm giảm đi những giá trị văn hóa đích thực của lễ xá tội vong nhân cũng như lễ Vu lan báo hiếu.

Với sự hội nhập vốn có của Phật giáo, với tín ngưỡng văn hóa dân tộc, nên chăng Phật giáo cần lên tiếng để mọi người hiểu đúng giá trị của lễ hội này đồng thời có sự hướng dẫn cho tăng ni, phật tử trong việc hiểu và hành để lễ này thể hiện tốt hơn nữa giá trị của nó. Đồng thời hạn chế, khắc phục những cách hiểu mang tính mê tín, cách hành tốn kém và lãng phí. Làm được điều này chính là lấy chánh tín của đạo Phật mà dung hợp với giá trị nhân văn của lễ xá tội vong nhân để Phật giáo có đóng góp tích cực, thiết thực vào đời sống văn hóa tâm linh của người Việt trong cuộc sống hiện đại.