Nhân duyên của giàu nghèo

Sống ở đời, ai cũng mong được sinh vào nhà khá giả, có điều kiện học hành và tạo dựng vốn liếng làm ăn, thiết lập đời sống hạnh phúc an vui. 

Nhưng trớ trêu cho kiếp người là không ai có thể chọn lựa cho mình một nơi chốn để sinh ra. Sinh vào nhà cha mẹ là ai, hoàn cảnh như thế nào… là điều mà ta không thể tự quyết được, tất cả đều do nghiệp duyên quá khứ của mình dẫn dắt.
Rồi khi lớn lên, trong cuộc chạy đua tìm kiếm mưu sinh đầy biến động thì không phải ai cũng đi đến thành công. Người được gia đình hỗ trợ bước đầu về nhiều phương diện thì cũng đỡ vất vả nhưng không lấy gì đảm bảo là họ sẽ làm ăn thành đạt. Lại có không ít người khởi nghiệp từ chút vốn cỏn con hoặc thậm chí là hai bàn tay trắng, đơn thương độc mã nhưng lần hồi đã gặt hái thành quả giàu sang.
Ảnh minh họa.
 Ảnh minh họa.
Khi đứng trước thềm vinh quang, khá nhiều người nghĩ rằng nhờ mình thông minh tài trí hơn người. Suy nghĩ như vậy không sai nhưng cạn cợt, thấy bề nổi mà chưa thấy hết bề sâu. Bởi người tài trí như mình ở trên đời không phải là hiếm, lại “có tài mà cậy chi tài”, tài trí thì đã đành nhưng phải có phước nữa mới hội đủ duyên để thành đạt.
Mọi phước đức giàu sang đều do bố thí, san sẻ với mọi người mà nên. Ngược lại, nghèo hèn do vì xan tham, keo lẫn chỉ lo cho riêng mình mà phải gánh chịu. Đức Phật đã dạy về nhân duyên sâu xa của giàu sang và nghèo hèn như sau:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Có hai pháp này khiến người bần tiện chẳng được tài sản. Thế nào là hai pháp? Nếu lúc thấy người khác bố thí, liền cấm chế; lại tự mình chẳng chịu bố thí. Ðó là, này Tỳ-kheo, có hai pháp này khiến người bần tiện không có tài bảo. Này các Tỳ-kheo, lại có hai pháp khiến người phú quý. Thế nào là hai pháp? Nếu lúc thấy người cho người khác vật, liền hoan hỷ trợ giúp; tự mình cũng thích bố thí. Ðó là, này Tỳ-kheo, có hai pháp khiến người phú quý. Như thế, này các Tỳ-kheo, hãy học bố thí, chớ có tâm tham!
- Có hai pháp khiến người sanh trong nhà bần tiện. Thế nào là hai pháp? Chẳng hiếu đễ với cha mẹ, các bậc sư trưởng, cũng không thừa sự người hơn mình. Ðó là, này các Tỳ-kheo, có hai pháp này, khiến người sanh trong nhà bần tiện. Này các Tỳ-kheo, lại có hai pháp khiến người sanh trong nhà hào tộc. Thế nào là hai pháp? Cung kính cha mẹ, anh em, tông tộc, đem của cải nhà mình bố thí. Ðó là, này các Tỳ-kheo, có hai pháp này sanh trong nhà hào tộc. Như thế, này các Tỳ-kheo, hãy học điều này!
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm”.
(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập I, phẩm Khuyến thỉnh,
VNCPHVN ấn hành, 1997, tr.308)
Đức Phật đã chỉ dạy rất rõ, nếu tự thân biết bố thí và hoan hỷ tán trợ hạnh bố thí của người khác chính là tác nhân chủ yếu để hưởng phước phú quý, giàu sang. Ngược lại, nếu mình không biết bố thí, tệ hại hơn còn ngăn cản người khác bố thí, thì chắc chắn sẽ chịu quả báo nghèo hèn, bần tiện. Nên trong quá trình làm ăn mà liên tục gặp thất bại, thậm chí vương phải nợ nần thì ngoài các lý do khách quan, hãy tự trách mình quá khứ không bố thí. Muốn khá lên thì cần vun bồi phước đức bằng cách tu hạnh thí xả. Giả như hiện tại không có tài vật nào đáng để cho thì hãy tùy hỷ thí - trợ giúp và hân hoan ca ngợi hạnh bố thí của người khác - may ra mới tích lũy được phước phần.
Mặt khác, song hành với bố thí thì “cung kính cha mẹ, anh em, tông tộc” chính là những tác nhân của phước báo sanh vào nhà hào tộc, có uy danh và thế lực lớn trong xã hội. Cho nên, những người con Phật chân chính hãy tự mình thực hiện hai hạnh lành bố thí và hiếu thuận, hướng dẫn cho con cháu cũng như những người xung quanh thực hành hai hạnh lành cao thượng này. Ai làm được như thế thì chắc chắn về sau sẽ được phước báo sanh vào nhà tôn quý, lớn lên gặt hái nhiều thành công phú quý, giàu sang.

Khám phá ngôi chùa lâu đời nhất Việt Nam

(Kiến Thức) - Được xây dựng từ những thế kỷ đầu Công nguyên, chùa Dâu là ngôi chùa lâu đời nhất trong lịch sử Phật giáo Việt Nam.

Nét đặc trưng nhất của chùa Dâu là tháp Hòa Phong. Tương truyền tháp do Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi dựng từ đời Trần. Xưa tháp cao 9 tầng nhưng nay chỉ còn lại 3 tầng dưới với chiều cao khoảng 17 m.
 Nét đặc trưng nhất của chùa Dâu là tháp Hòa Phong. Tương truyền tháp do Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi dựng từ đời Trần. Xưa tháp cao 9 tầng nhưng nay chỉ còn lại 3 tầng dưới với chiều cao khoảng 17 m.
Tháp Hòa Phong hình vuông với chiều dài mỗi cạnh gần 7 m. Loại gạch xây tháp là gạch cỡ lớn được nung thủ công đến mức có màu sẫm như vại sành.
Tháp Hòa Phong hình vuông với chiều dài mỗi cạnh gần 7 m. Loại gạch xây tháp là gạch cỡ lớn được nung thủ công đến mức có màu sẫm như vại sành. 
Trước mặt tháp có tượng một con cừu đá hình dáng rất đặc biệt.
 Trước mặt tháp có tượng một con cừu đá hình dáng rất đặc biệt.
Các nhà nghiên cứu nói rằng niên đại của con cừu đá này từ đời Hán.
 Các nhà nghiên cứu nói rằng niên đại của con cừu đá này từ đời Hán.
Nó là dấu tích cổ xưa nhất còn sót lại trong ngôi chùa hơn ngàn tuổi này.
Nó là dấu tích cổ xưa nhất còn sót lại trong ngôi chùa hơn ngàn tuổi này.
Bốn góc tường phía trong tháp Hòa Phong là 4 pho tượng Tứ Thiên vương.
 Bốn góc tường phía trong tháp Hòa Phong là 4 pho tượng Tứ Thiên vương.
Tứ Thiên vương theo truyền thuyết là những vị sống trên núi Tu-di với nhiệm vụ bảo vệ và hộ trì Phật pháp.
 Tứ Thiên vương theo truyền thuyết là những vị sống trên núi Tu-di với nhiệm vụ bảo vệ và hộ trì Phật pháp.
Phía trên treo một chiếc chuông và một chiếc khánh cổ. Chiếc khánh được đúc năm 1817.
 Phía trên treo một chiếc chuông và một chiếc khánh cổ. Chiếc khánh được đúc năm 1817.
Trên thượng điện của chùa có một pho tượng đặc biệt màu đồng hun. Đó là tượng nữ thần Pháp Vân (thuộc tứ pháp là: Vân, Vũ, Lôi, Điện).
 Trên thượng điện của chùa có một pho tượng đặc biệt màu đồng hun. Đó là tượng nữ thần Pháp Vân (thuộc tứ pháp là: Vân, Vũ, Lôi, Điện).
Một pho tượng khác cũng đáng chú ý là tượng Thiền sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Ngài là người đã mở ra dòng thiền đầu tiên ở Việt Nam vào thế kỷ 6.
 Một pho tượng khác cũng đáng chú ý là tượng Thiền sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Ngài là người đã mở ra dòng thiền đầu tiên ở Việt Nam vào thế kỷ 6.
Kiến trúc chùa Dâu tuân theo lối cổ truyền là "nội công ngoại quốc" với bốn dãy nhà liên thông hình chữ nhật bao quanh lấy 3 tòa chính là Tiền đường, Thiêu hương và Thượng điện nằm ngang.
 Kiến trúc chùa Dâu tuân theo lối cổ truyền là "nội công ngoại quốc" với bốn dãy nhà liên thông hình chữ nhật bao quanh lấy 3 tòa chính là Tiền đường, Thiêu hương và Thượng điện nằm ngang. 
Một góc tòa Thượng điện.
Một góc tòa Thượng điện.
Hai bên tòa Thượng điện là hai dãy nhà thờ Thập bát La hán theo cách bài trí thường thấy ở các ngôi chùa.
 Hai bên tòa Thượng điện là hai dãy nhà thờ Thập bát La hán theo cách bài trí thường thấy ở các ngôi chùa.
Nét đặc biệt là các pho tượng La Hán này cũng như hầu hết các pho tượng trong chùa Dâu đều được đắp bằng giấy bồi và đất sét.
Nét đặc biệt là các pho tượng La Hán này cũng như hầu hết các pho tượng trong chùa Dâu đều được đắp bằng giấy bồi và đất sét. 
Nằm sau cùng chùa là vườn tháp, nơi lưu giữ hài cốt của các nhà sư tu hành tại chùa Dâu.
 Nằm sau cùng chùa là vườn tháp, nơi lưu giữ hài cốt của các nhà sư tu hành tại chùa Dâu.







Ấn Độ huyền bí giữa Sài Gòn: “Kho báu” của đạo Hindu

(Kiến Thức) - So với đền thờ thần Mariamman, đền Sri Thenday Yutthapani vắng vẻ hơn. Những người đến làm lễ đa phần là người Ấn Độ hoặc có gốc Ấn. 

Nằm ở số 66 Tôn Thất Thiệp, Quận 1, TP HCM, ngôi đền Sri Thenday Yutthapani (người Việt thường gọi là Chùa Ông) được trang mạng Shaivam của cộng đồng Hindu giáo quốc tế khen ngợi và ví như một trong những "kho báu" của đạo Hindu.
Nằm ở số 66 Tôn Thất Thiệp, Quận 1, TP HCM, ngôi đền Sri Thenday Yutthapani (người Việt thường gọi là Chùa Ông) được trang mạng Shaivam của cộng đồng Hindu giáo quốc tế khen ngợi và ví như một trong những "kho báu" của đạo Hindu.

Chết không phải hết

Đời người, ai cũng chết, nghĩa là ai cũng sẽ một lần xả báo thân tứ đại để vân du theo nghiệp lực mà mình đã tác tạo đời này, đời khác. 

Và chết, cứ nghĩ là tắt thở rồi thôi, người nào cũng giống nhau cả. Ai dè, không phải thế, có người muốn chết không được, vì nghĩ sống khổ quá, chết quách cho xong; có người bằng mọi cách để sống, nhưng mà đâu có được, vô thường gọi tên bằng hơi thở ra, không vào được nữa!