Rạng sáng 21.9 (theo giờ Việt Nam), ca sĩ Đức Phúc đã xuất sắc giành ngôi vô địch tại cuộc thi âm nhạc quốc tế Intervision 2025, diễn ra tại sân vận động Live Arena, ngoại ô Moskva, Nga. Tiết mục kéo dài 3 phút 30 giây của quán quân Giọng hát Việt 2015 đã chinh phục tuyệt đối 16 vị giám khảo quốc tế với số điểm vượt trội - 422 điểm, cao hơn hẳn người về nhì (373 điểm) cùng giải thưởng 30 triệu ruble (gần 9,5 tỉ đồng).

Điều đặc biệt, ca khúc giúp Đức Phúc giành chiến thắng do nhạc sĩ Hồ Hoài Anh sáng tác đã lấy cảm hứng từ bài thơ Tre Việt Nam của tác giả Nguyễn Duy và truyền thuyết Thánh Gióng. Những ca từ mở đầu nhắc nhớ những vần thơ đã từng quen thuộc với bao thế hệ học trò trong sách giáo khoa xưa:
"Tre xanh
Xanh tự bao giờ
Chuyện ngày xưa... đã có bờ tre xanh
Thân gầy guộc, lá mong manh
Mà sao nên luỹ nên thành, tre ơi?"...
Theo chia sẻ của nhà thơ Nguyễn Duy, ông đã vô cùng xúc động khi biết điều này, ông gọi đó là "món nhuận bút đẹp nhất" trong cuộc đời làm thơ của mình.
Từ chiến hào đến thơ trong ca khúc giúp Đức Phúc giành chiến thắng
Nhà thơ Nguyễn Duy chia sẻ, “Tre Việt Nam” được ông viết năm 1969, khi còn là lính binh nhì trên đường hành quân. Ba năm xa quê, ông luôn da diết nhớ làng Vũ (Đò Lèn, Thanh Hóa) với lũy tre bến nước thân thương. Trong một căn hầm dưới khóm tre già, những câu thơ đầu tiên bật ra trọn vẹn, không cần sửa. Phần còn lại, ông phải mất tới hai năm viết rồi chỉnh sửa mới thành bài thơ hoàn chỉnh.

Bài thơ Tre Việt Nam được viết theo thể thơ lục bát, trong đó có sự sáng tạo độc đáo ở hình thức: câu lục mở đầu được tách thành hai dòng và câu lục cuối cùng được chia thành ba dòng. Lời thơ mềm mại, giàu nhạc điệu, giàu hình ảnh gợi tả, mang giọng điệu du dương, tha thiết, dễ đi vào lòng người.
Ngay từ ba dòng thơ đầu, tác giả cất lời ngạc nhiên, tự hỏi về màu xanh của tre, rồi liên tưởng đến “chuyện ngày xưa”, câu chuyện Thánh Gióng nhổ gốc tre làm vũ khí đánh tan giặc Ân. Hình ảnh ấy gợi nhắc đến sự gắn bó lâu đời và bền chặt giữa cây tre với đất nước, với con người Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử.
Theo chia sẻ của nhà thơ Nguyễn Duy, trong toàn bộ bài thơ, hình tượng cây tre được nhân hóa, trở thành biểu tượng giàu ý nghĩa, kết tinh nhiều phẩm chất cao quý của dân tộc Việt Nam.
Tre là biểu tượng của tình thương yêu đùm bọc, của tinh thần đoàn kết để vượt qua gian khó, tạo dựng nên sức mạnh bền vững của cộng đồng. Tre cũng tượng trưng cho đức hy sinh và tình thương bao la của người mẹ hiền, được thể hiện qua những câu thơ giàu cảm xúc: “Bão bùng thân bọc lấy thân/ Tay ôm tay níu tre gần nhau thêm/ Thương nhau tre không ở riêng/ Lũy thành từ đó mà nên hỡi người”.
Dù được sáng tác cách đây hơn nửa thế kỷ, bài thơ vẫn giữ nguyên giá trị, gợi trong lòng độc giả niềm xúc động sâu xa. Đọc lại Tre Việt Nam hôm nay, người ta không chỉ thêm yêu cây tre, lũy tre, yêu vẻ đẹp mộc mạc mà bền bỉ của quê hương đất nước, mà còn thấy tự hào và trân trọng hơn những phẩm chất cao quý đã làm nên bản lĩnh và tâm hồn con người Việt Nam.
Nguyễn Duy, nhà thơ của lương tri và khát vọng cách tân
Nhà thơ Nguyễn Duy, tên khai sinh là Nguyễn Duy Nhuệ, sinh ngày 7 tháng 12 năm 1948 tại làng Quảng Xá, xã Đông Vệ, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa.

Tuổi thơ của ông gắn liền với làng quê và bà ngoại sau khi mẹ mất sớm. Năm 1965, mới mười bảy tuổi, ông đã là tiểu đội trưởng dân quân trực chiến tại khu vực cầu Hàm Rồng – “tọa độ lửa” ác liệt của miền Bắc những năm chiến tranh phá hoại. Một năm sau, Nguyễn Duy nhập ngũ, trở thành lính thông tin, từng trải qua nhiều chiến trường nóng bỏng từ đường 9 – Khe Sanh, Nam Lào cho đến chiến trường miền Nam và biên giới phía Bắc năm 1979.
Sau ngày đất nước thống nhất, ông công tác tại báo Văn Nghệ Giải Phóng, rồi gắn bó lâu dài với Báo Văn Nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam, trước khi nghỉ hưu và sinh sống tại TP. Hồ Chí Minh.
Nhà thơ Nguyễn Duy nổi bật với phong cách thơ vừa truyền thống vừa cách tân. Ông được xem là một trong những nhà thơ làm mới thể lục bát, vốn quen thuộc trong kho tàng dân gian. Thơ lục bát của Nguyễn Duy mềm mại mà hiện đại, ngắt nhịp linh hoạt, giàu sức gợi và đẫm chất chiêm nghiệm.
Song song với đó, ông còn mạnh dạn thử sức ở thơ tự do, đặc biệt trong các tác phẩm dài như Đánh thức tiềm lực (1980 – 1982), Nhìn từ xa… Tổ quốc (1988 – 1989), Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ (1991 – 1992). Những bài thơ này mang đậm tính đối thoại và tự vấn, thể hiện sự trăn trở về vận mệnh đất nước, thiên nhiên, môi sinh và trách nhiệm công dân trong một giai đoạn nhiều biến động.
Điểm đặc sắc trong thơ Nguyễn Duy là sự hòa quyện giữa ký ức làng quê, tuổi thơ, bà, mẹ, những lũy tre, mái rơm với những vấn đề lớn lao của dân tộc và nhân loại. Giọng thơ của ông chân thành, nhân bản, gần gũi nhưng luôn tiềm ẩn triết lý sâu xa. Những câu thơ thế này đã khiến biết bao thế hệ người đọc xúc động:
“Cái cò... sung chát đào chua...
câu ca mẹ hát gió đưa về trời
ta đi trọn kiếp con người
cũng không đi hết mấy lời mẹ ru
Bao giờ cho tới mùa thu
trái hồng trái bưởi đánh đu giữa rằm
bao giờ cho tới tháng năm
mẹ ra trải chiếu ta nằm đếm sao” (Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa)
Nhiều tác phẩm thơ của ông gợi chất thiền, đậm hơi thở triết lý phương Đông, phản ánh khát vọng hướng thiện và tinh thần phản tỉnh trước những đổi thay của xã hội. Ông không ngần ngại cất lên tiếng nói phản biện, khước từ sự sáo rỗng, để hướng đến sự thật và những giá trị nhân văn cốt lõi.
Nguyễn Duy vì thế không chỉ là “nhà thơ của làng quê Việt”, mà còn là nhà thơ của lương tri, của những trăn trở nhân sinh và nỗ lực cách tân nghệ thuật. Ông góp phần làm giàu thêm diện mạo thơ ca Việt Nam hiện đại, vừa giữ gìn hơi thở truyền thống, vừa thổi vào đó tinh thần sáng tạo và trách nhiệm công dân, để mỗi vần thơ trở thành tiếng gọi từ ký ức, lương tri và khát vọng.
Trong sự nghiệp văn chương, nhà thơ Nguyễn Duy đã xuất bản 15 tập thơ, 3 tập bút ký và 1 tiểu thuyết, cùng nhiều tác phẩm để lại dấu ấn đậm nét như Cát trắng, Ánh trăng, Đường xa, Quà tặng... Năm 1973, chùm thơ Hơi ấm ổ rơm, Tre Việt Nam, Bầu trời vuông... đoạt giải Nhất cuộc thi thơ Báo Văn Nghệ, đưa ông trở thành gương mặt tiêu biểu của thế hệ nhà thơ thời chiến. Những đóng góp bền bỉ trong nửa thế kỷ cầm bút đã mang lại cho ông nhiều giải thưởng văn học uy tín, trong đó có Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2007.