Lãi suất dài hạn không giảm, gửi tiết kiệm ung dung hưởng lợi

Ngân hàng Nhà nước đã hạ trần lãi suất tiền gửi một loạt các kỳ hạn dưới 6 tháng từ ngày 13/5. Mặc dù vậy, lãi suất huy động các kỳ hạn trên 6 tháng hiện nay vẫn được các ngân hàng giữ ở mức cao.

Gửi tiết kiệm hưởng lãi cao

Tại các ngân hàng, lãi suất kỳ hạn 6 tháng khi gửi tiền tiết kiệm tại quầy dao động từ 4,9%-7,5%. Với kỳ hạn 9-12 tháng, lãi suất từ 4,9-8%/năm.Trong đó, Ngân hàng Quốc dân (NCB) có lãi suất tiết kiệm gửi tại quầy cao nhất với kỳ hạn 6 tháng là 7,5%/năm và 12 tháng là 8%/năm, nếu lĩnh lãi vào cuối kỳ.

Lãi suất tiền gửi kỳ hạn 13-18 tháng tại quầy dao động từ 6,45%- 8,1%/năm. Lãi suất huy động tại quầy ở kỳ hạn 24 tháng dao động quanh mức 6,55%-8,1%/năm. Với kỳ hạn 36 tháng, lãi suất tiền gửi tại quầy ở mức 6,3%-8,1%/năm, lĩnh lãi cuối kỳ.

Nếu gửi tiền online, khách hàng sẽ được hưởng lãi suất cao hơn. Với kỳ hạn 6 tháng khi gửi tiền tiết kiệm online, mức lãi suất từ 4,9-8,21%. Với kỳ hạn 9-12 tháng, lãi suất quanh mức 4,9-8,66%. 

Lai suat dai han khong giam, gui tiet kiem ung dung huong loi
Nếu có tiền, gửi ngân hàng TMCP nhỏ sẽ được hưởng lãi suất cao nhất

Ngoài ra, khách hàng có thể mua chứng chỉ tiền gửi kỳ hạn dài với lãi suất cao hơn. Khách gửi tiền vào các ngân hàng thương mại cổ phần (TMCP) nhỏ sẽ hưởng lãi suất cao hơn các ngân hàng thương mại có vốn Nhà nước và ngân hàng thương mại cổ phần lớn từ 1-1,5 điểm % ở cùng kỳ hạn.

Như vậy, nếu có tiền lúc này, khách hàng có thể chọn gửi các ngân hàng TMCP nhỏ sẽ được hưởng lãi suất cao nhất. Song, các ngân hàng này lại có ít phòng giao dịch nên tại nhiều địa phương muốn gửi cũng không dễ. Tuy nhiên, vẫn có thể gửi qua hình thức online khá thuận tiện và được hưởng lãi suất cao hơn tại quầy.

Với lãi suất 7,5% cho kỳ hạn 6 tháng và 8% cho kỳ hạn 12 tháng, trong khi lạm phát dưới 4%/năm thì khách hàng đang được hưởng lãi suất thực dương khá cao.

Tuy nhiên, với các DN có nhu cầu vay vốn kinh doanh, lãi suất cao lại khiến họ nản lòng. Sau khi Ngân hàng Nhà nước hạ trần lãi suất tiền gửi một loạt các kỳ hạn dưới 6 tháng và lãi suất điều hành, giúp các ngân hàng thương mại giảm chi phí huy động vốn hàng trăm tỷ đồng trong năm nay. Nhưng lãi suất cho vay trung và dài hạn vẫn giữ ở mức cao.

Khi nào lãi suất giảm?

Với lãi suất huy động kỳ hạn dài như  trên, các ngân hàng đang cho vay trung và dài hạn từ 8,5%/năm trở lên. Tuy nhiên, chỉ những ngân hàng thương mại có vốn Nhà nước mới có lãi suất cho vay thấp. Để vay được vốn từ các ngân hàng này cũng không hề dễ dàng, phải đảm bảo nhiều tiêu chuẩn như  có lịch sử tín dụng tốt, là khách hàng thân thiết, kinh doanh có lãi, dự án có hiệu quả, có tài sản đảm bảo...

Một số DN cho biết, dù đã được các ngân hàng giảm lãi suất từ 0,5-2 điểm % thì vay các kỳ hạn dài vẫn chịu lãi suất 10%/năm. Tuy nhiên, lãi suất này cũng chỉ tính cho kỳ đầu tiên trong khoảng 3-6 tháng, sau đó lại thả nổi. Theo tính toán, các DN trong lĩnh vực cơ khí cần được vay với lãi suất khoảng 6%/năm mới có thể hỗ trợ phục hồi sản xuất kinh doanh.

Lai suat dai han khong giam, gui tiet kiem ung dung huong loi-Hinh-2
Chỉ khi nào lãi suất huy động giảm mạnh thì lãi suất cho vay mới giảm theo

Song, lãi suất huy động của nhiều ngân hàng hiện vẫn giữ ở mức cao thì khó lòng giảm mạnh lãi suất cho vay, mặc dù tăng trưởng tín dụng âm. Trước tình hình này, các ngân hàng đang “đẩy vốn” vào trái phiếu DN có lãi suất cao hơn hẳn.

Trong khi đó, ngân hàng trung ương nhiều quốc gia tiếp tục duy trì mức lãi suất điều hành thấp kỷ lục. Cục Dự trữ liên bang Mỹ (FED) còn nghiên cứu áp dụng lãi suất đồng USD ở mức âm.

Chuyên gia kinh tế Phạm Nam Kim cho rằng, lạm phát có xu hướng hạ nhiệt. Các dự báo cho thấy, từ nay đến cuối năm khó vượt qua mức 3%. Lạm phát thấp thì không nên duy trì lãi suất huy động quá cao. Vì vậy, cần giảm lãi suất huy động xuống thấp hơn với kỳ hạn dài. Đây là thời điểm tốt để đưa mặt bằng lãi suất cho vay giảm xuống. Chỉ có giảm sâu lãi suất cho vay mới giúp kinh tế phục hồi.

“Mặt bằng lãi suất cho vay trung và dài hạn nên đưa về mức 7%-8%/năm là hợp lý. Như vậy thì lãi suất huy động chỉ từ 4%-5%/năm. Tính ra khách hàng gửi tiết kiệm cũng vẫn hưởng lãi thực dương”, ông Kim nói.

Tuy nhiên, điều này có vẻ khó khi nhóm ngân hàng thương mại cổ phần nhỏ vẫn đang dẫn dắt về lãi suất. Những ngân hàng nhỏ, thương hiệu danh tiếng hạn chế, mạng lưới các phòng giao dịch ít gặp khó khăn trong huy động vốn, phải giữ lãi suất cao.

Hoạt động sản xuất, kinh doanh của các DN đang bị ảnh hưởng tiêu cực dịch Covid-19 nên nhu cầu vay vốn hiện giảm thấp.Tăng trưởng tín dụng hệ thống ngân hàng trong 4 tháng đầu năm cũng rất thấp. Nhiều ngân hàng TMCP nhỏ có tăng trưởng tín dụng âm. Vậy nhưng lãi suất cho vay vẫn không giảm mạnh. Chỉ khi nào lãi suất huy động giảm mạnh thì lãi suất cho vay mới giảm theo và các đa số DN sẽ được hỗ trợ hiệu quả.

Những ngân hàng phát mại căn hộ vài lần vẫn 'ế ẩm'

BIDV, Sacombank, Agribank có nhiều lần phát mại tài sản nhưng không thành công, phải bán hạ giá hoặc cho thanh toán trả chậm khoản vay mua tài sản.

Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam, chi nhánh Gia Định (BIDV Gia Định) vừa rao bán lần thứ ba các căn hộ tại dự án chung cư Kỷ Nguyên (The Era Town), đường 15B Nguyễn Lương Bằng, quận 7, TP HCM. Số lượng rao bán lần này là 55 căn hộ với diện tích dao động 135 - 368 m2, giá 2 - 5,2 tỷ đồng. Như vậy, mức giá trung bình khoảng 14,8 triệu đồng/m2, bao gồm thuế giá trị gia tăng (VAT) nhưng chưa gồm 2% phí bảo trì. 

Mức giá phát mại trên đã giảm 5% so với các đợt chào bán trước đó, theo chính sách giảm giá của ngân hàng. BIDV tiến hành phát mại các căn hộ thuộc The Era Town từ tháng 10/2019, trải qua 3 lần với số lượng lần lượt 27 căn, 26 căn và 65 căn.

'Big 4' rướn sức bao sân, tổng tài sản các tổ chức tín dụng lên gần 12,5 triệu tỷ đồng

Dữ liệu cập nhật mới nhất cho thấy, "big 4" ngân hàng thương mại nhà nước lớn vẫn giữ tỷ trọng tổng tài sản ngang ngửa với khối cổ phần trong hệ thống, dù khó tăng vốn. 

'Big 4' ruon suc bao san, tong tai san cac to chuc tin dung len gan 12,5 trieu ty dong-Hinh-2
Ảnh minh họa.
Theo dữ liệu cập nhật của Ngân hàng Nhà nước, tình hình "sức khỏe" hệ thống các tổ chức tín dụng tiếp tục được củng cố, thêm kết quả xử lý nợ xấu và nhiều thành viên đã áp dụng được yêu cầu đủ vốn theo Basel II.
"Big 4" rướn sức bao sân
Cụ thể, tính đến cuối tháng 3/2020, tổng tài sản toàn hệ thống các tổ chức tín dụng đã đạt 12,48 triệu tỷ đồng, tăng 46,8% so với cuối năm 2016. Tuy nhiên, con số này lại giảm nhẹ 0,72% so với cuối năm 2019.
Trong đó, tổng tài sản của "big 4" ngân hàng thương mại nhà nước (Agribank, Vietcombank, Vietinbank, BIDV) đạt 5.213,4 nghìn tỷ đồng, chiếm 41,76% toàn hệ thống.
Tỷ trọng tổng tài sản của 4 thành viên nói trên ngang ngửa với khối cổ phần tư nhân, cùng tạo nhóm ảnh hưởng lớn nhất trong hệ thống, cũng như đối với nền kinh tế khi xét về sức nâng tín dụng.
Cùng kỳ cập nhật, đến cuối tháng 3/2020, nhóm ngân hàng thương mại cổ phần tư nhân đạt tổng tài sản 5.252,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 42% toàn hệ thống, tăng nhẹ 0,77% so với cuối năm trước.
Tính đến cuối tháng 3/2020, vốn điều lệ của toàn hệ thống đạt 617,5 nghìn tỷ đồng, tăng 0,85% so với cuối năm trước. Trong đó, vốn điều lệ của 4 ngân hàng thương mại nhà nước lớn nói trên đạt 145,1 nghìn tỷ đồng, chiếm 23,5% toàn hệ thống.
Như vậy, tương quan cho thấy, nhóm "big 4" chỉ chiếm tỷ trọng 23,5% vốn điều lệ toàn hệ thống nhưng tỷ trọng tổng tài sản vẫn bao tới 41,76%. Một mặt, cân đối này phản ánh sức rướn của nhóm trong đảm bảo nhu cầu tín dụng của nền kinh tế, nhưng mặt khác cũng cho thấy yêu cầu cần gia tăng vốn điều lệ.
Từ đầu năm đến nay, các đầu mối chức năng cũng như các thành viên trong nhóm trên đã đặt vấn đề, đề xuất hướng tháo gỡ, tạo nguồn và cơ chế tăng vốn với kỳ vọng Quốc hội sẽ xem xét lại cơ cấu tại kỳ họp sắp tới.
Và như BizLIVE phản ánh ở bản tin trước, Chính phủ đã đề xuất Quốc hội cho phép bổ sung dự toán chi ngân sách Nhà nước năm 2020 để bổ sung vốn điều lệ cho Agribank từ nguồn tăng thu, tiết kiệm chi ngân sách Trung ương năm 2019, tối đa 3.500 tỷ đồng.
Bên cạnh tăng khả năng đáp ứng tín dụng cho nền kinh tế, đề xuất tăng vốn ở đây còn nhằm đảm bảo thực hiện đúng các quy định về tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu đáp ứng mức đủ vốn theo chuẩn mực vốn Basel II (phương pháp tiêu chuẩn), cụ thể như tại Agribank và VietinBank.
Trở lại với tình hình hệ thống, đối với nhóm ngân hàng thương mại cổ phần, tính đến cuối tháng 3/2020, vốn điều lệ đạt mức 286,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 46,6% toàn hệ thống, tăng nhẹ 0,53% so với cuối năm 2019.
Ở tình hình chung, dù quy mô vốn điều lệ còn có những hạn chế cục bộ, song toàn hệ thống cũng đã tích lũy được quy mô vốn chủ sở hữu lớn hơn nhiều, đến cuối tháng 3/2020 đạt 937,9 nghìn tỷ đồng (quy mô tổng vốn điều lệ 617,5 nghìn tỷ đồng).
Và về tổng thể, toàn hệ thống hiện đã có nhiều thành viên triển khai được Chuẩn mực vốn Basel II, đáp ứng các thông lệ quốc tế về an toàn vốn. 
Cụ thể, đến nay, có 76 tổ chức tín dụng (2 ngân hàng thương mại nhà nước, 20 ngân hàng thương mại cổ phần, 2 ngân hàng liên doanh, 9 ngân hàng 100% vốn nước ngoài và 43 chi nhánh ngân hàng nước ngoài) đã áp dụng tỷ lệ an toàn vốn theo Thông tư số 41/2016/TT-NHNN, còn 14 tổ chức tín dụng đề nghị được áp dụng tỷ lệ an toàn vốn theo Thông tư số 22/2019/TT-NHNN.
Đã xử lý được hơn 1 triệu tỷ đồng nợ xấu
Như BizLIVE đề cập về tình hình nợ xấu ngân hàng ở bài viết gần đây, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước vừa có báo cáo gửi các đại biểu Quốc hội, nhìn lại cả quá trình xử lý kể từ khi toàn hệ thống thực hiện tái cơ cấu.
Báo cáo cho biết, nợ xấu nội bảng của hệ thống các tổ chức tín dụng tiếp tục được xử lý, kiểm soát và duy trì ở mức dưới 3%; tỷ lệ nợ xấu nội bảng đến cuối tháng 3/2020 là 1,77%.
Tính từ năm 2012 đến cuối tháng 3/2020, toàn hệ thống các tổ chức tín dụng đã xử lý được 1.076,95 nghìn tỷ đồng nợ xấu (riêng năm 2019 xử lý được 159,7 nghìn tỷ đồng và 3 tháng đầu năm 2020 xử lý được 26,94 nghìn tỷ đồng). 
Tỷ lệ nợ xấu nội bảng, nợ bán cho Công ty Quản lý tài sản các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) chưa xử lý và nợ tiềm ẩn trở thành nợ xấu của hệ thống tổ chức tín dụng đến tháng 3/2020 ở mức 4,46%, giảm mạnh so với mức 10,08% cuối năm 2016, mức 7,36% cuối năm 2017 và mức 5,85% vào cuối năm 2018.
Về xử lý nợ xấu được xác định theo Nghị quyết 42 của Quốc hội, lũy kế từ 15/8/2017 đến cuối tháng 3/2020, cả hệ thống tổ chức tín dụng đã xử lý được 299,8 nghìn tỷ đồng nợ xấu xác định theo Nghị quyết 42.
Trong đó, xử lý nợ xấu nội bảng (không bao gồm xử lý bằng sử dụng dự phòng rủi ro và bán nợ cho VAMC thông qua phát hành trái phiếu đặc biệt) là 169,4 nghìn tỷ đồng (chiếm 56,5% tổng nợ xấu đã xử lý).
Xử lý các khoản nợ đang hạch toán ngoài bảng cân đối kế toán xác định theo Nghị quyết 42 là 65,3 nghìn tỷ đồng (chiếm 21,79% tổng nợ xấu đã xử lý).
Xử lý các khoản nợ xấu xác định theo Nghị quyết 42 đã bán cho VAMC được thanh toán bằng trái phiếu đặc biệt là 65,08 nghìn tỷ đồng (chiếm 21,7%).
Bên cạnh đó, đến thời điểm cuối tháng 3/2020, các tổ chức tín dụng đã sử dụng 154,58 nghìn tỷ đồng dự phòng rủi ro để xử lý nợ xấu nội bảng.

PGV ước doanh thu 4 tháng đầu năm đạt hơn 14.000 tỷ đồng

(Vietnamdaily) - Doanh thu lũy kế 4 tháng năm 2020 của PGV ước thực hiện là 14.326 tỷ đồng, cao hơn 1% so với cùng kỳ năm 2019.
 

Theo bản tin IR, Tổng Công ty Phát điện 3 (EVNGENCO 3, HoSE: PGV) cho biết trong tháng 4/2020, do ảnh hưởng bởi đại dịch COVID-19, trong đó thực hiện cách ly toàn xã hội nên phụ tải giảm dẫn đến sản lượng điện sản xuất và nhập khẩu toàn hệ thống chỉ đạt 18,54 tỷ kWh, thấp hơn kế hoạch tháng là 2,98 tỷ kWh và giảm 10% so với cùng kỳ tháng 4/2019.

Các nhà máy nhiệt điện khí và than (Phú Mỹ, Vĩnh Tân 2, Mông Dương 1) của PGV được huy động thấp. Các nhà máy thủy điện vận hành theo lưu lượng nước về trong điều kiện thời tiết bất lợi, khô hạn, nắng nóng kéo dài.