Ghi nhận nền tảng kinh tế để Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới

Dự thảo ghi nhận nền tảng kinh tế để Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới với vị thế chưa từng có; mạnh dạn đề ra mục tiêu cao và chương trình hành động cụ thể.

Cần nhấn mạnh hơn các vấn đề, thách thức và nguy cơ nổi bật

Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XIV của Đảng về tổng thể đã thể hiện sự kế thừa và phát triển, cập nhật nhiều quan điểm, mục tiêu mới và các giải pháp, nhiệm vụ mang tính đột phá, mạnh mẽ hơn, phản ánh sự đổi mới, sáng tạo, có tính cách mạng trong tư duy và hành động. Đồng thời thể hiện ngắn gọn, súc tích, có trọng tâm, trọng điểm, có tính khái quát và khả thi cao, phù hợp với tình hình thực tế, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong giai đoạn mới.

544.jpg
Hội nghị Trung ương 14.

Thứ hai, về chủ đề Đại hội, trên cơ sở bổ sung thành tố tự chủ chiến lược so với dự thảo tháng 6/2025, chủ đề Đại hội XIV là: “Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, chung sức, đồng lòng thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2030; tự chủ chiến lược, tự cường, tự tin, tiến mạnh trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc vì hoà bình, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội”.

Chủ đề này có sự phân chặng cụ thể rõ hơn và trải dài tầm nhìn mục tiêu theo 2 giai đoạn lịch sử là đến năm 2030 và kỷ nguyên vươn mình của dân tộc và CNXH; tương ứng với đó là các công cụ nguyên tắc và giải pháp cần có cho mỗi giai đoạn là chung sức, đồng lòng cho giai đến 2030 và tự chủ chiến lược, tự cường, tự tin, cho kỷ nguyên vươn mình….

Tuy nhiên, hai cụm từ “chung sức” và “đồng lòng” là gần nghĩa nhau và yếu hơn cụm từ “đoàn kết” là nguyên tắc quan trọng nhất cội nguồn tạo nên sức mạnh của Đảng và dân tộc; đồng thời, cần bổ sung cụm từ “sáng tạo” đang trở thành thông điệp lớn của kỷ nguyên mới…

Ngoài ra, việc tách rời các cụm từ công cụ theo giai đoạn mục tiêu sẽ dễ gây hiểu lầm trong nhận thức và thực tiễn, cũng như đặc biệt làm giảm cộng lực mang tính hệ thống bổ sung cho nhau của các công cụ nguyên tắc và giải pháp cần có cho đạt mục tiêu mỗi giai đoạn…

Do đó, cần điều chỉnh lại chủ đề mới sẽ là: “Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, đoàn kết, sáng tạo, tự chủ chiến lược, tự cường, tự tin thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2030; tiến mạnh trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc vì hoà bình, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội”.

ts-nguyen-minh-phong.jpg
TS Nguyễn Minh Phong phát biểu tại Hội thảo Góp ý dự thảo các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam tổ chức. (Ảnh: Gia Đạt)

Thứ ba, việc đánh giá thực trạng và đề xuất phương hướng, giải pháp xử lý cần nhấn mạnh hơn trong Dự thảo các vấn đề, thách thức và nguy cơ nổi bật, bao trùm và là gốc rễ của nhiều hạn chế trong phát triển đất nước thời gian qua, đó là: Chậm và thiếu đột phá trong đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; sự bất cập trong tư duy và thể chế phát triển; sự trì trệ và lỗ hổng trong xây dựng hệ giá trị quốc gia, các tiêu chí nhận diện và cơ chế bảo vệ lợi ích quốc gia; đặc biệt là những thiếu sót, yếu kém trong công tác cán bộ, nhất là nhân sự cấp cao, cũng như vấn nạn tham nhũng, lãng phí và tư duy nhiệm kỳ, lợi ích nhóm, cục bộ, địa phương.

Thứ tư, về quan điểm chỉ đạo, Dự thảo xác lập 5 quan điểm. Đọc kỹ 5 quan điểm trên cho thấy còn một số hạn chế như dù bao quát được hầu hết các nguyên tắc nền tảng quan trọng nhất cho việc xây dựng và triển khai các nội dung nhiệm vụ, mục tiêu và giải pháp trong nhiệm kỳ tới, song Dự thảo chưa định tên từng quan điểm rõ ràng và cô đọng; dẫn giải về nội dung các quan điểm còn trùng lặp, thiếu tập trung; thứ tự các quan điểm thiếu kết nối và logic nội tại, chưa phân biệt rõ mục tiêu và công cụ đạt mục tiêu; thiếu thông điệp xuyên suốt và bao trùm… Hơn nữa, còn thiếu nội dung “chủ động đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng” trong quan điểm thứ 5 về xây dựng Đảng…

Bởi vậy, để các quan điểm trở nên mạnh, sắc nét, gọn rõ và gắn kết với nhau hơn cả về nội dung và hình thức diễn đạt, cần biên tập, chỉnh sửa lại các quan điểm trong Dự thảo theo hướng giữ nguyên tổng thể nội dung, nhưng sắp xếp lại câu chữ và ý tứ luận điểm như phương án gợi ý sau đây:

(1) Kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, lý luận về đường lối đổi mới, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; tự chủ chiến lược, đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới và mô hình phát triển, lấy phát triển để ổn định, ổn định để thúc đẩy phát triển nhanh, bền vững đất nước, nâng cao đời sống và hạnh phúc của Nhân dân, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

(2) Nhận diện sớm, tranh thủ mọi thuận lợi, thời cơ, vượt qua mọi khó khăn, thách thức, kết hợp chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ trọng tâm, trong đó: Phát triển kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hoá, con người là nền tảng; tăng cường quốc phòng, an ninh; đột phá về khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chủ động hội nhập quốc tế là trọng yếu, thường xuyên.

(3) Chuyển mạnh sang mô hình tăng trưởng mới trên cơ sở đột phá và nâng cao chất lượng thể chế, đẩy mạnh phát triển lực lượng sản xuất mới gắn với thực hiện đồng bộ 4 chuyển đổi: Chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, chuyển đổi năng lượng; chuyển đổi cơ cấu, chất lượng nguồn nhân lực và thu hút, trọng dụng nhân tài; lấy kinh tế tư nhân là động lực quan trọng nhất; khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia là động lực chính; khơi thông và giải phóng sức sản xuất, phát huy và kết hợp hiệu quả mọi nguồn lực phát triển nhanh, bền vững đất nước.

(4) Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; phát huy sức mạnh, bản lĩnh, trí tuệ và văn hoá của con người Việt Nam, cộng hưởng truyền thống yêu nước, khát vọng phát triển, ý chí tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc, khối đại đoàn kết toàn dân tộc và thế trận lòng dân thành nguồn lực nội sinh, động lực mạnh mẽ cho sự phát triển và bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; gắn kết chặt chẽ, hài hoà giữa phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, bảo vệ môi trường với củng cố quốc phòng, an ninh, nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế. Chủ động, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia; bảo đảm và bảo vệ cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế.

(5) Nâng cao vai trò, năng lực lãnh đạo, cầm quyền, sức chiến đấu của Đảng và năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý, quản trị, kiến tạo phát triển của Nhà nước. Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; đoàn kết, thống nhất; vận hành thông suốt, đồng bộ, hiệu quả tổ chức bộ máy mới của hệ thống chính trị. Gắn kết chặt chẽ tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận với xây dựng và tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Thắt chặt mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với Nhân dân; phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của Nhân dân; chủ động đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng gắn với tăng cường kiểm soát quyền lực, kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ.

Làn gió tươi mới trong đột phá nhận thức chính trị của Đảng ta về kinh tế

Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XIV lần đầu tiên đã tích hợp ba văn kiện gồm: Báo cáo chính trị, Báo cáo kinh tế - xã hội và Báo cáo tổng kết xây dựng Đảng; Nội dung ngắn gọn, rõ ràng, đi thẳng vào vấn đề và kèm theo Chương trình hành động giúp nâng cao tính thực tiễn và đảm bảo tính khả thi trong việc triển khai, hiện thực hóa Nghị quyết Đại hội.

Dự thảo ghi nhận nền tảng kinh tế để Việt Nam bước vào Kỷ nguyên mới, với vị thế chưa từng có: Việt Nam trở thành nước xuất khẩu gạo và nhiều nông sản khác đứng hàng đầu thế giới. Tỉ lệ hộ nghèo giảm từ 58% năm 1993 xuống còn khoảng dưới 1,9% năm 2024 theo chuẩn nghèo đa chiều. Việt Nam đã trở thành nền kinh tế lớn thứ 4 trong ASEAN, thứ 32 trên thế giới; GDP bình quân đầu người năm 2025 gấp gần 25 lần sau ba thập kỷ; tuổi thọ trung bình tăng từ 62 tuổi năm 1990 lên khoảng 74,7 tuổi năm 2025. Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam thuộc nhóm nước trung bình cao của thế giới. Chỉ số hạnh phúc theo xếp hạng của Liên Hợp Quốc năm 2025 tăng 8 bậc so với năm 2024, lên thứ hạng 46/143 quốc gia (năm 2020 xếp thứ 83).

gop-y.jpg
Các đại biểu tham dự Hội thảo Góp ý dự thảo các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam tổ chức. (Ảnh: Gia Đạt)

Đồng thời, Dự thảo cũng đã nhận diện đúng điểm yếu về năng suất, chất lượng, hiệu quả của nền kinh tế vẫn thấp; thể chế phát triển còn chậm; mạnh dạn đề ra mục tiêu cao, phương hướng, nhiệm vụ, biện pháp và chương trình hành động cụ thể để đạt được các mục tiêu:

Phấn đấu tăng trưởng GDP bình quân cho giai đoạn 2026 - 2030 từ 10%/năm trở lên; GDP bình quân đầu người đến năm 2030 đạt khoảng 8.500 USD; tỉ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo đạt khoảng 28% GDP; tỉ trọng kinh tế số đạt khoảng 30% GDP.

Đóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng kinh tế đạt trên 55%. Tốc độ tăng năng suất lao động đạt khoảng 8,5%/năm. Giảm tiêu hao năng lượng tính trên đơn vị GDP ở mức 1 - 1,5%/năm. Tỉ lệ đô thị hoá đạt trên 50%. Tổng tích luỹ tài sản khoảng 35 - 36% GDP; tỉ trọng tiêu dùng cuối cùng khoảng 61 - 62% GDP.

Tổng vốn đầu tư toàn xã hội bình quân 5 năm khoảng 40% GDP, trong đó tỉ lệ đầu tư công chiếm 20 - 22%. Tỉ lệ huy động nguồn ngân sách giai đoạn 2026 - 2030 đạt 18% GDP; bội chi ngân sách khoảng 5% GDP.

Chỉ số phát triển con người (HDI) phấn đấu đạt khoảng 0,78; tuổi thọ trung bình tính từ lúc sinh đạt khoảng 75,5 tuổi, trong đó thời gian sống khoẻ mạnh đạt tối thiểu 68 năm; tỉ lệ lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội giảm xuống còn dưới 20%; tỉ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ đạt 35 - 40%.

Tỉ lệ hộ nghèo (theo chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2026 - 2030) duy trì mức giảm 1 - 1,5 điểm%/năm. Tỉ lệ che phủ rừng duy trì mức 42%; tỉ lệ xử lý và tái sử dụng nước thải ra môi trường lưu vực các sông đạt khoảng 65 - 70%; lượng phát thải khí nhà kính giảm 8 - 9%; tỉ lệ các cơ sở sản xuất kinh doanh đạt quy chuẩn về môi trường đạt khoảng 98 - 100%; tăng diện tích các khu bảo tồn biển, ven biển đạt tối thiểu 6% diện tích tự nhiên vùng biển quốc gia…

Đặc biệt, Dự thảo đã tạo làn gió tươi mới trong đột phá nhận thức chính trị của Đảng ta về kinh tế, bởi lần đầu tiên văn kiện Đại hội Đảng không còn dùng từ thành phần kinh tế, mà chỉ dùng cụm từ “khu vực kinh tế”.

Đồng thời, cũng lần đầu tiên văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc đã chính thức khẳng định phải phát huy đầy đủ chức năng, vai trò của các khu vực kinh tế; trong đó, khu vực kinh tế tư nhân có vai trò “là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế”; trong khi kinh tế nhà nước thật sự giữ vai trò chủ đạo trong việc bảo đảm các cân đối lớn, định hướng chiến lược, dẫn dắt nền kinh tế; kinh tế hợp tác, kinh tế tập thể, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài và các loại hình kinh tế khác giữ vai trò quan trọng…

Ngoài ra, Dự thảo cũng lần đầu tiên nhấn mạnh yêu cầu hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển nhanh, bền vững đất nước, trong đó thể chế chính trị giữ vai trò then chốt, định hướng; thể chế kinh tế là trọng tâm; thể chế trên các lĩnh vực khác là quan trọng. Tiếp tục hoàn thiện mô hình tổ chức tổng thể của hệ thống chính trị theo hướng tinh, gọn, mạnh, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, mở rộng không gian phát triển; thực hiện mô hình hệ thống chính trị 3 cấp, chính quyền địa phương 2 cấp.

Giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa nhà nước - thị trường - xã hội, để thị trường thực sự có vai trò quyết định trong huy động và phân bổ nguồn lực.

Xác lập mô hình tăng trưởng mới, nhấn mạnh chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế chia sẻ; cũng như nhấn mạnh quan điểm “phát triển kinh tế-xã hội và bảo vệ môi trường là trung tâm”, với trọng tâm là nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của nền kinh tế, lấy khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số làm động lực chính;

Tạo ra sức sản xuất mới, phương thức, lĩnh vực sản xuất kinh doanh mới. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa tự chủ sản xuất trong nước với việc tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. Đẩy mạnh liên kết vùng, mở rộng và cơ cấu lại không gian phát triển phù hợp với hệ thống hành chính mới.

Những chỉ số, định hướng và mục tiêu mang tầm nhìn đầy táo bạo đó là đúng đắn và có tính khả thi, làm nức lòng người dân, củng cố niềm tin và sự kỳ vọng của người dân vào lời hứa của Đảng trong kỷ nguyên mới, với sự kiên định và nhiều quyết sách chiến lược mang tính đột phá cho phép vượt qua mọi thách thức truyền thống và phi truyền thống trong giai đoạn 2026 - 2030.

Tuy nhiên, Dự thảo còn trình bày thiếu tập trung các nội dung về kinh tế nhà nước, về nông nghiệp, nông thôn, cũng như về định hướng phát triển cơ cấu ngành công nghiệp và một số nội dung khác, gây cảm giác trùng lặp và khó nắm bắt các luận điểm và thông điệp chính của nội dung về kinh tế thể hiện trong Dự thảo …Hơn nữa, vì có sự liên kết, giao thoa và bổ sung nhau chặt chẽ về nội dung, nên cần tăng liên kết, tránh trùng lặp, để phần KHCN trở thành “động lực xuyên tâm” của toàn bộ phần kinh tế và điều chỉnh thứ tự gần nhau hơn giữa phần IV “xác lập mô hình tăng trưởng mới, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, lấy khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số làm động lực chính” với phần VII “Đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia”.

Đồng thời, cần diễn đạt lại các nội dung định hướng phát triển kinh tế trong phần IV theo hướng nhóm các nội dung liên quan theo từng nhóm tiêu đề tương ứng để tăng tính logic, mạch lạc, tập trung, tránh trùng lặp và dễ nắm bắt hơn, bao gồm các tiêu đề nhóm nội dung về: Phát triển lực lượng sản xuất mới và các mô hình, động lực và cơ chế quản lý mới; Cơ cấu lại và hiện đại hoá các ngành kinh tế công nghiệp, dịch vụ, nông nghiệp và nông thôn; Phát triển các khu vực, vùng và chuỗi cung ứng; Phát triển kinh tế đối ngoại và hội nhập quốc tế gắn với đảm bảo sự ổn định, tự chủ và an ninh kinh tế quốc gia.

Ngoài ra, nên chuyển những nội dung “Đẩy nhanh tốc độ nâng cao chất lượng đô thị hoá bảo đảm kết hợp đồng bộ và hài hoà giữa cải tạo, chỉnh trang, tái thiết đô thị với phát triển các đô thị mới. Chú trọng mô hình phát triển đô thị theo định hướng phát triển giao thông công cộng (TOD), khai thác hiệu quả không gian ngầm, nhất là tàu điện ngầm tại các đô thị lớn. Mở rộng các loại hình nhà ở, ưu tiên phát triển nhà ở xã hội” trong phần IV để ghép vào nội dung mục VIII – Quản lý phát triển xã hội bền vững; bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội, chăm lo đời sống Nhân dân.

Dự thảo sẽ có độ sâu lý luận hơn khi làm rõ hơn nội hàm của “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” và định vị cụ thể hơn yêu cầu hệ sinh thái cần thiết nhằm hiện thực hoá vai trò động lực quan trọng nhất của khu vực kinh tế tư nhân trong bối cảnh hội nhập quốc tế, cách mạng công nghiệp lần thứ tư;

Đồng thời, cần chú ý bổ sung những định hướng nội dung liên quan đến phát triển đồng bộ các thị trường và các chuỗi cung ứng; phát triển kinh tế đối ngoại gắn với tăng cường tính tự chủ và bảo đảm an ninh kinh tế; đảm bảo tuân thủ đầy đủ các quy luật và quy trình quản lý kinh tế thị trường; tôn trọng các cam kết và thông lệ tốt trong quản lý kinh tế quốc tế.

Cùng với đó, cần xác định ngành công nghệ chiến lược rõ hơn (ví dụ: chip bán dẫn, tự động hóa, vật liệu tiên tiến, sinh học …), gắn với “phát triển doanh nghiệp ngành”, “chuỗi giá trị” và “thương hiệu quốc gia”.

Nhấn mạnh và nhận diện rõ cơ chế đột phá cho việc chuyển từ “nền kinh tế tăng trưởng” sang “nền kinh tế chất lượng, xanh, số hóa, sáng tạo”, chuyển mạnh từ cơ chế “xin – cho” sang “bật đèn xanh – chịu trách nhiệm” cho doanh nghiệp; áp dụng thử nghiệm cơ chế đặc thù tại các địa bàn chiến lược và dự án quốc gia; Bổ sung mục tiêu và giải pháp hỗ trợ phát triển SME về xuất khẩu, ứng dụng công nghệ số và chuyển đổi số; hợp tác với doanh nghiệp lớn, tham gia chuỗi toàn cầu; bảo đảm môi trường bình đẳng, thông thoáng, minh bạch, tránh tập trung quá lớn gây bóp nghẹt SME; tăng phân cấp, phân quyền mạnh hơn cho địa phương và doanh nghiệp tư nhân, kinh tế hợp tác.

Do đó, cần bổ sung nội dung phát triển nhanh thị trường tín chỉ các bon và có chỉ tiêu về phát thải khí nhà kính, năng lượng sạch, năng suất trên đơn vị sử dụng năng lượng; nhấn mạnh cơ chế thu hút đầu tư xanh, ưu đãi cho công nghệ “thải thấp”, và cơ chế loại bỏ/ hạn chế đầu tư “thải cao”. Thử nghiệm thể chế mới: sandbox công nghệ, đầu tư xanh, đổi mới sáng tạo. Nhấn mạnh và nhận diện rõ hơn yêu cầu: tăng trưởng nhanh, nhưng không hy sinh môi trường, không làm mất công bằng xã hội. Bổ sung cơ chế thu hút nhân tài quốc tế, liên kết với khu vực tư nhân, khởi nghiệp, nghiên cứu ứng dụng – để tạo “đầu vào” đổi mới bên cạnh “đầu ra”.

Ngoài ra, cần định vị rõ hơn cơ chế Giám sát – đánh giá – trách nhiệm trong phát triển kinh tế, gắn với yêu cầu xây dựng hệ thống chỉ số, đánh giá định kỳ; trách nhiệm và cơ chế thưởng-phạt rõ hơn cho đạt/không đạt mục tiêu từ trung ương tới địa phương, thu hút sự tham gia của nhân dân, doanh nghiệp và ngăn ngừa tình trạng lợi ích nhóm lũng đoạn và thao túng thị trường, vô hiệu hoá hoặc trục lợi chính sách trong phát triển kinh tế.

Nhìn chung, có thể nói, Dự thảo đã thể hiện nhiều điểm mới quan trọng về nội dung; thể hiện sự dũng cảm và quyết tâm chính trị cao, sự hội tụ và kết tinh trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân trong nỗ lực vượt qua những giới hạn chủ quan cả về nhận thức và thể chế, là văn kiện có ý nghĩa quốc gia lâu dài, trực tiếp và gián tiếp góp phần tạo nền tảng cho cộng lực và phát huy sức mạnh tổng hợp thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng Việt Nam đến năm 2030 trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao, đảm bảo hoà bình, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc và vẻ vang sánh vai các cường quốc năm châu theo di nguyện thiêng liêng của Bác Hồ.

Dự thảo các văn kiện Đại hội XIV thể hiện tầm nhìn phát triển mới

Tư duy mới về mô hình tăng trưởng, nhấn mạnh khoa học công nghệ, kinh tế tư nhân…là những yếu tố then chốt mở đường kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.

Trao đổi với PV Tri thức và Cuộc sống, PGS.TS. Vũ Văn Phúc - nguyên Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản đánh giá, dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng đã nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng tình hình và đề ra những định hướng đột phá nhằm phát triển nhanh, bền vững và chủ động, đổi mới sáng tạo hơn. Tư duy mới về mô hình tăng trưởng, nhấn mạnh khoa học – công nghệ, kinh tế tư nhân… là những yếu tố then chốt mở đường cho kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.

66666666.jpg
PGS.TS. Vũ Văn Phúc - nguyên Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản

Chỉ số hạnh phúc được đề xuất đưa vào Văn kiện Đảng đến 2030

Ông Huỳnh Thanh Phương nhấn mạnh cần bổ sung chỉ số hạnh phúc trong phát triển, hướng tới 75% dân số hài lòng cuộc sống năm 2030.

Tham gia thảo luận, góp ý vào dự thảo Văn kiện trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng, ông Huỳnh Thanh Phương, Phó Bí thư chuyên trách Đảng ủy các cơ quan Đảng tỉnh Tây Ninh đề cập đến nhiều nội dung cốt lõi.

HƯỚNG TỚI NĂM 2030 CÓ KHOẢNG 75% DÂN SỐ HÀI LÒNG, HẠNH PHÚC

Trí thức VUSTA đóng góp vào dự thảo các Văn kiện Đại hội XIV của Đảng

TSKH Phan Xuân Dũng - Chủ tịch Liên hiệp Các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) khẳng định, góp ý Dự thảo các Văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng là một trong những sự kiện có ý nghĩa đặc biệt quan trọng của đảng viên, hội viên, trí thức.

Ngày 7/11, dưới sự chỉ đạo của Đảng ủy Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể Trung ương, Liên hiệp các Hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) tổ chức Hội thảo Góp ý dự thảo các Văn kiện trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng.

VUSTA là kênh phản biện xã hội tin cậy, giúp Đảng và Nhà nước hoàn thiện thể chế, chính sách