
Từ góc độ pháp lý, một môi trường pháp lý minh bạch, ổn định, dễ dự đoán là điều kiện tiên quyết để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của mọi chủ thể trong xã hội, đồng thời thúc đẩy hoạt động kinh tế diễn ra an toàn, hiệu quả. Nghị quyết 66-NQ/TW ra đời đáp ứng trực tiếp yêu cầu này trong bối cảnh Việt Nam đang hội nhập sâu rộng, đối mặt với biến động nhanh của thị trường và yêu cầu đổi mới quản trị quốc gia.

Đối với người dân, hệ thống pháp luật minh bạch giúp họ dễ dàng tiếp cận, hiểu và thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình. Tính ổn định của pháp luật bảo đảm rằng các quy định không thay đổi tùy tiện, từ đó tạo niềm tin vào công lý và bảo vệ hiệu quả các quyền hiến định.
Đối với doanh nghiệp, đặc biệt là khu vực tư nhân và nhà đầu tư nước ngoài, tính dự đoán của pháp luật là yếu tố quyết định trong việc hoạch định chiến lược, quản trị rủi ro và cam kết vốn dài hạn. Khi quy định pháp luật rõ ràng, nhất quán, thủ tục hành chính minh bạch, chi phí tuân thủ sẽ giảm, qua đó nâng cao sức cạnh tranh và khả năng mở rộng sản xuất – kinh doanh.
Đối với nền kinh tế, môi trường pháp lý chất lượng cao là động lực thu hút đầu tư, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và hội nhập thị trường quốc tế. Nghị quyết 66 đặt trọng tâm vào việc loại bỏ xung đột pháp luật, giảm thủ tục rườm rà và chuẩn hóa quy trình ban hành – thực thi pháp luật. Điều này giúp tạo hành lang pháp lý vững chắc, dự đoán được, qua đó nâng cao năng lực chống chịu và thích ứng của nền kinh tế trước các biến động toàn cầu.
Việc ra đời Nghị quyết 66-NQ/TW vừa có ý nghĩa chiến lược, vừa là yêu cầu tất yếu để Việt Nam nâng cấp năng lực thể chế, đáp ứng các mục tiêu phát triển trong kỷ nguyên mới. Nghị quyết 66-NQ/TW ra đời không chỉ giải quyết những bất cập hiện hữu, mà còn tạo hành lang pháp lý tiên tiến, thích ứng nhanh với biến động toàn cầu, củng cố vững chắc nền tảng Nhà nước pháp quyền và phát triển quốc gia bền vững.

Vấn đề đặt ra cho việc triển khai Nghị quyết 66-NQ/TW trong thực tiễn hiện nay về cơ bản liên quan đến việc giải quyết những hạn chế và bất cập còn tồn tại trong công tác xây dựng và thi hành pháp luật. Điều này thể hiện qua chất lượng pháp luật: Hệ thống pháp luật vẫn chưa theo kịp yêu cầu của thực tiễn. Vẫn còn tồn tại các quy định chồng chéo, mâu thuẫn và chưa rõ ràng, cản trở việc thực thi, đổi mới sáng tạo và thu hút nguồn lực đầu tư. Tư duy xây dựng pháp luật trong một số lĩnh vực còn thiên về quản lý, chưa tạo ra khuôn khổ pháp lý thuận lợi để thúc đẩy các động lực tăng trưởng mới.
Chậm trễ trong thể chế hóa: Một số chủ trương, định hướng của Đảng chưa được thể chế hóa một cách kịp thời và đầy đủ. Ngoài ra, việc phân cấp, phân quyền còn chưa đủ mạnh và thủ tục hành chính vẫn còn rườm rà. Trong đó, việc tổ chức thực thi pháp luật vẫn là "khâu yếu", thiếu cơ chế phản ứng chính sách kịp thời và hiệu quả.
Nguyên nhân của tình trạng này là do nhiều địa phương, nhất là vùng sâu, vùng xa, còn thiếu cán bộ được đào tạo chuyên sâu về pháp luật, kỹ năng phân tích chính sách, đánh giá tác động và kỹ thuật lập pháp. Năng lực cập nhật và vận dụng các quy định mới, đặc biệt trong lĩnh vực pháp luật chuyên ngành, còn hạn chế. Bên cạnh đó, về trình độ chuyên môn, không phải tất cả cán bộ pháp chế đều được đào tạo bài bản về luật học; ở nhiều địa phương, cán bộ kiêm nhiệm công tác pháp chế nhưng chuyên môn gốc thuộc lĩnh vực khác, dẫn đến hạn chế trong việc phân tích, lập luận và vận dụng quy định pháp luật.
Bên cạnh đó, hệ thống hướng dẫn thi hành ở nhiều bộ, ngành chưa kịp thời, thậm chí có điểm chưa rõ ràng, dẫn tới mỗi địa phương vận dụng theo cách riêng. Cơ chế phối hợp liên ngành còn rời rạc, chưa có nền tảng số dùng chung để chia sẻ thông tin, dữ liệu pháp lý. Các địa phương kinh tế mạnh thường có điều kiện đầu tư cơ sở vật chất, công nghệ, và đào tạo cán bộ tốt hơn, trong khi nhiều địa phương khó khăn phải phụ thuộc vào hỗ trợ từ Trung ương. Hạ tầng chuyển đổi số phục vụ công tác pháp luật chưa đồng đều, làm hạn chế việc áp dụng các công cụ hiện đại như cơ sở dữ liệu pháp luật, phân tích dữ liệu phục vụ thi hành.
Thực tiễn Việt Nam hiện nay cho thấy, ở nhiều lĩnh vực, hướng dẫn thi hành do các bộ, ngành ban hành chưa đồng bộ, đôi khi chậm so với thời điểm luật, nghị định có hiệu lực, hoặc còn mâu thuẫn giữa các văn bản cùng cấp. Ví dụ điển hình: Luật Đất đai sửa đổi có hiệu lực từ ngày 1/8/2024, tuy nhiên, nhiều địa phương chưa kịp thời ban hành văn bản hướng dẫn thi hành. Theo báo cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường, một số tỉnh như Hải Phòng, Lạng Sơn, Khánh Hòa, Đắk Lắk, Bến Tre, Sóc Trăng mới ban hành từ 2 đến 5 trên tổng số 20 nội dung được giao trong Luật. Điều này đã ảnh hưởng đến quyền lợi của người dân và doanh nghiệp, làm giảm hiệu quả triển khai chính sách mới dẫn đến tình trạng mỗi địa phương tự diễn giải và áp dụng khác nhau. Phương pháp tổ chức thực thi cũng thiếu chuẩn hóa: từ khâu phổ biến pháp luật, tiếp nhận – xử lý hồ sơ, đến giám sát, thanh tra, kiểm tra, khiến chất lượng thực thi không ổn định. Hạ tầng chuyển đổi số và cơ sở dữ liệu pháp luật quốc gia chưa được triển khai đồng bộ, dẫn tới hạn chế trong chia sẻ thông tin, tra cứu, và giám sát thi hành pháp luật.
Chính sự thiếu thống nhất trong quy trình và chênh lệch nguồn lực không chỉ ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý nhà nước mà còn làm suy giảm niềm tin của người dân và doanh nghiệp. Giải pháp là cần chuẩn hóa toàn bộ quy trình thực thi trên phạm vi cả nước, đồng thời đầu tư hạ tầng và phân bổ nguồn lực theo hướng thu hẹp khoảng cách giữa các vùng, bảo đảm mọi công dân đều được thụ hưởng pháp luật một cách bình đẳng và hiệu quả.

