Hội chẩn nhiều vòng tìm cách cứu bệnh nhân
Các bác sĩ khoa Sản bệnh - Bệnh viện Sản Nhi Nghệ An cho biết vừa phẫu thuật thành công một trường hợp rau cài răng lược thể nặng, bảo tồn tử cung an toàn cho sản phụ có tiền sử hai lần sinh mổ.
Sản phụ N.T.H (35 tuổi, trú tại tỉnh Nghệ An), mang mang thai lần thứ 3, thai 35 tuần. Trước đó, sản phụ có tiền sử 2 lần sinh mổ, lần này được chẩn đoán rau tiền đạo trung tâm – rau cài răng lược thể nặng.
Ở tuổi thai 35 tuần 4 ngày, chị H. xuất hiện đau bụng, được chuyển đến Bệnh viện Sản Nhi Nghệ An. Qua thăm khám lâm sàng và cận lâm sàng, các bác sĩ chẩn đoán sản phụ bị rau cài răng lược thể nặng trên nền vết mổ cũ.
Nhận định đây là trường hợp phức tạp, nguy cơ băng huyết cao, bệnh viện nhanh chóng tiến hành hội chẩn, đánh giá mức độ xâm lấn của bánh rau, lập kế hoạch mổ chi tiết và dự trù máu, đảm bảo an toàn cho sản phụ.
Người nhà sản phụ chia sẻ, khi được chẩn đoán rau cài răng lược thể nặng, cả gia đình vô cùng lo lắng bởi từng nghe nhiều trường hợp phải cắt bỏ tử cung hoặc gặp biến chứng nguy hiểm. Việc bánh rau bám sâu và diện rộng trên nền vết mổ cũ khiến gia đình luôn trong tâm trạng căng thẳng, nhất là khi thời điểm sinh cận kề.
Ngày 23/9, sản phụ H. có chỉ định kết thúc thai kỳ, phẫu thuật lấy thai. Trong quá trình phẫu thuật, êkip ghi nhận mạch máu tăng sinh nhiều, bàng quang kéo cao, nhiều mạc nối lớn dính vào thành bụng. Các bác sĩ tiến hành bóc tách cẩn trọng, mổ lấy thai và xử trí rau cài răng lược một cách tỉ mỉ, hạn chế tối đa nguy cơ mất máu.
Bé trai nặng 2.800 gram cất tiếng khóc khoẻ mạnh. Trước mổ, sản phụ được truyền 2 đơn vị hồng cầu do tình trạng thiếu máu (Hb 99g/L). Lượng máu mất trong mổ khoảng 500ml, nằm trong giới hạn an toàn của một ca mổ sinh thông thường.
ThS.BS Trần Xuân Cảnh, Trưởng khoa Sản bệnh, cho biết: “Với bệnh lý rau cài răng lược, chúng tôi tiến hành hội chẩn qua rất nhiều vòng, cùng với lãnh đạo Bệnh viện và các chuyên gia để đánh giá mức độ nghiêm trọng, cân nhắc kỹ chọn thời điểm kết thúc thai kỳ, tiên lượng sát sao các vấn đề có thể xảy ra trong cuộc mổ. Chính nhờ sự thận trọng và lên kế hoạch kỹ càng, chúng tôi đã phẫu thuật an toàn, bảo tồn được tử cung cho các sản phụ bị rau cài răng lược những thể nặng”.
Sau mổ, sức khỏe mẹ và bé ổn định, được theo dõi hậu phẫu tại khoa Sản bệnh, và đã xuất viện về nhà.
Dù đã được các bác sĩ tư vấn kỹ lưỡng, chị H. vẫn không giấu được sự xúc động. "Biết tình trạng nguy hiểm của mình, đúng tình thế "cửa sinh là cửa tử", nên tôi luôn cầu mong con ra đời an toàn và mình còn có thể tiếp tục làm mẹ. Nhưng, hơn cả mong đợi, không chỉ tôi và con đều an toàn, mà bác sĩ còn bảo tồn được tử cung cho tôi, để tôi tiếp tục sống và bảo tồn thiên chức người phụ nữ", chị H. chia sẻ sau phẫu thuật.

Tai biến sản khoa nguy hiểm
ThS. BS Trần Xuân Cảnh cho biết, rau cài răng lược là tình trạng bánh rau bám quá sâu vào lớp cơ tử cung. Bệnh thường gặp ở thai phụ có rau tiền đạo và có sẹo mổ lấy thai cũ, vị trí rau bám thường gặp tại sẹo mổ lấy thai cũ ở cơ tử cung.
Sau khi được phát hiện, sản phụ cần được theo dõi tại cơ sở y tế có trang thiết bị hiện đại cũng như đội ngũ bác sĩ giỏi chuyên môn và giàu kinh nghiệm về mổ rau cài răng lược, bởi đây là một kỹ thuật khó tiềm ấn rất nhiều rủi ro của sản khoa.
ThS.BS Trần Xuân Cảnh nhấn mạnh, rau cài răng lược là tai biến sản khoa vô cùng nguy hiểm, không chỉ gây nguy hiểm cho cuộc sinh mà còn đe dọa tính mạng mẹ bầu.
Bởi bình thường bánh nhau sẽ bong ra khỏi thành tử cung sau khi sản phụ sinh em bé. Bánh nhau sau đó được xổ ra bên ngoài. Tuy nhiên, khi mẹ bầu mắc phải nhau cài răng lược, bánh nhau không thể tự bong khỏi thành tử cung mà bám chặt vào các cơ tử cung, thậm chí xâm lấn sang các cơ quan lân cận. Đây chính là nguyên nhân gây ra tình trạng băng huyết sau sinh, nhiễm trùng hậu phẫu… thậm chí gây tử vong ở thai phụ.
Các nghiên cứu từ những năm 1970-1980 cho thấy, tỷ lệ mắc phải tình trạng này là 1/2.510 đến 1/4.017. Vào những năm 1982-2002, tỷ lệ mắc phải là 1/533. Tỷ lệ này ngày càng tăng là do sự thay đổi của các yếu tố nguy cơ gây bệnh, đáng chú ý nhất là sự tăng lên của việc sinh mổ lấy thai ngày càng được chỉ định rộng rãi.
Dựa vào mức độ xâm lấn của bánh nhau mà bệnh lý bánh nhau này được chia thành 3 thể chính, bao gồm:
Thể Accreta: Bánh nhau bám trực tiếp trên bề mặt tử cung. Đây là thể phổ biến nhất, chiếm 75% tổng số trường hợp.
Thể Increta: Bánh nhau xâm nhập vào sâu bên trong thành tử cung nhưng chưa qua khỏi lớp thanh mạc tử cung. Đây là thể phổ biến trung bình, chiếm khoảng 15% tổng số trường hợp.
Thể Percreta: Bánh nhau xâm lấn xuyên qua cơ tử cung vào lớp thanh mạc tử cung, thậm chí xâm lấn sang các cơ quan lân cận như ruột, bàng quang… Mặc dù thể Percreta ít phổ biến nhất, chỉ chiếm khoảng 5% tổng số trường hợp nhưng là thể nghiêm trọng nhất.
Hiện nguyên nhân chính xác gây bệnh vẫn chưa được xác định rõ ràng nhưng theo các chuyên gia phần lớn mẹ bầu gặp phải tình trạng này đều có điểm chung là có vết sẹo trên thành tử cung do phẫu thuật mổ lấy thai hoặc bóc nhân xơ tử cung.
Bên cạnh đó, việc mẹ bầu có tiền sử sinh mổ lấy thai hoặc mắc phải nhau tiền đạo cũng làm tăng nguy cơ bị nhau cài răng lược. Thống kê cho thấy, khoảng 5-10% các trường hợp mắc bệnh là ở mẹ bầu bị rau tiền đạo.
Sinh mổ lấy thai làm tăng nguy cơ bánh nhau không thể tự động tách khỏi thành tử cung. Mẹ bầu có tiền căn vết mổ cũ càng nhiều, nguy cơ gặp phải tình trạng này càng lớn. Thống kê cho thấy, trên 60% các ca mắc là ở mẹ bầu có vết mổ cũ 3 lần trở lên.
Rau cài răng lược không gây ra bất cứ triệu chứng hay dấu hiệu rõ rệt nào, chỉ vào những tháng cuối thai kỳ (tam cá nguyệt thứ ba) xuất hiện tình trạng xuất huyết âm đạo bất thường mới phát hiện ra.
"Khi mang thai, các sản phụ nên thăm khám và quản lý thai chặt chẽ, đặc biệt mẹ bầu mang thai nhiều lần, có tiền sử mổ lấy thai thì cần đi khám thai đầy đủ theo hướng dẫn của bác sĩ để phát hiện sớm và có biện pháp điều trị kịp thời các biến chứng thai kỳ, đảm bảo sức khỏe cho bản thân và thai nhi.
Khi nghi ngờ hoặc được chẩn đoán rau tiền đạo, rau cài răng lược nên theo dõi và điều trị tại các bệnh viện chuyên ngành sản để phát hiện và xử trí kịp thời”, ThS.BS Trần Xuân Cảnh khuyên.