Sản phụ nguy kịch được chuyển lên tuyến trên
Ngày 14/8, Bệnh viện Hữu nghị Việt Nam - Cu Ba Đồng Hới cho biết, các bác sĩ Khoa Sản đã tiếp nhận và cấp cứu thành công một sản phụ bị băng huyết nặng sau sinh, trong tình trạng nguy kịch.
Bệnh nhân tên M (42 tuổi, trú tại Bình Trị, Quảng Trị), được chuyển tuyến khẩn cấp từ cơ sở y tế tuyến dưới sau khi có dấu hiệu băng huyết nặng sau sinh. Mặc dù đã được xử trí ban đầu, tình trạng của sản phụ nhanh chóng chuyển biến xấu, rơi vào tình trạng mất máu kèm rối loạn đông máu, buộc phải chuyển lên tuyến trên.
Ngay khi tiếp nhận, các bác sĩ Khoa Sản đã kích hoạt quy trình "báo động đỏ", huy động ê-kíp cấp cứu đa chuyên khoa, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của: ThS.BS Phan Thị Hằng – Phó Khoa Sản, BS.CKI Nguyễn Tuấn Bình – cùng các bác sĩ, hộ sinh giàu kinh nghiệm của Khoa Sản.

Ê-kíp đã nhanh chóng triển khai phác đồ xử trí cấp cứu băng huyết nặng sau sinh kèm rối loạn đông máu, bao gồm: Thiết lập đường truyền lớn, truyền dịch chống sốc tích cực;
Huy động khẩn cấp 7 đơn vị máu và các chế phẩm máu (hồng cầu khối, huyết tương tươi đông lạnh, tủa lạnh); Sử dụng thuốc co hồi tử cung và các biện pháp kiểm soát chảy máu; Theo dõi sát sinh hiệu, tri giác, lượng nước tiểu; Liên tục làm xét nghiệm đông máu để điều chỉnh kịp thời...
Sau gần 2 giờ can thiệp tích cực, tình trạng bệnh nhân dần ổn định: huyết áp cải thiện, tri giác phục hồi, các chỉ số đông máu trở về mức an toàn. Sản phụ đã may mắn vượt qua ranh giới sinh – tử trong gang tấc. Hiện tại, chị đang được tiếp tục theo dõi và hồi phục tốt tại khoa.
Cứ mỗi 4 phút có một sản phụ tử vong vì băng huyết sau sinh
ThS.BS Lê Võ Minh Hương, Bệnh viện Từ Dũ, TP HCM cho biết, băng huyết sau sinh là tình trạng sản phụ bị mất một lượng máu rất lớn sau khi sinh con, có thể dẫn đến sốc mất máu. Tình trạng này có thể xảy ra sau khi sinh qua ngả âm đạo (gọi là "sinh thường") hoặc sau khi phẫu thuật để đưa em bé ra ngoài (gọi là "sinh mổ" hoặc "mổ lấy thai").

Đây là một trong 5 tai biến sản khoa thường gặp nhất và là nguyên nhân gây tử vong mẹ hàng đầu trên thế giới. Theo thống kê của Tổ chức y tế thế giới, cứ mỗi 4 phút có một sản phụ tử vong vì băng huyết sau sinh.
Phần lớn băng huyết sau sinh xảy ra sớm trong vòng 24 giờ đầu sau sinh, nhưng cũng có thể xảy ra cho đến 12 tuần sau sinh.
Trong phần lớn trường hợp, băng huyết sau sinh xảy ra do tử cung không co bóp (siết chặt) tốt sau khi sinh.
Các nguyên nhân thường gặp khác gây băng huyết sau sinh là: Rách âm đạo, cổ tử cung hoặc vỡ tử cung; Các mảnh nhỏ của nhau thai hoặc màng nhau vẫn dính vào tử cung sau khi em bé chào đời; Bệnh lý rối loạn đông cầm máu;
Các yếu tố làm tăng nguy cơ bị băng huyết sau sinh: Béo phì, Đa sản, Thiếu máu, Bệnh lý của cơ tử cung (như U xơ tử cung to, lạc tuyến trong cơ tử cung), Tiền căn băng huyết sau sinh, tiền căn gia đình (mẹ, chị em gái) bị băng huyết sau sinh, đang sử dụng thuốc (thuốc cắt gò tử cung, thuốc kháng đông…);
Thai kỳ hỗ trợ sinh sản (IVF); Nhau cài răng lược, nhau tiền đạo, vết mổ cũ; Rối loạn tăng huyết áp trong thai kỳ (tiền sản giật, sản giật); Nhau bong non; Thai lưu; Con to > 4000 gram; Đa ối; Nhiễm trùng ối; Thai già tháng; Khởi phát chuyển dạ; Chuyển dạ quá nhanh hoặc chuyển dạ kéo dài.
Các triệu chứng của băng huyết sau sinh là chảy máu lượng lớn từ âm đạo. Mất máu trong băng huyết sau sinh có thể ồ ạt hoặc chảy một cách từ từ, kín đáo, máu thường có màu đỏ tươi và chảy ra liên tục.
Nếu mất quá nhiều máu, sản phụ có thể cảm thấy mệt, yếu, chóng mặt, choáng váng, vã mồ hôi, tay chân lạnh, da xanh xao. Kiểm tra mạch, huyết áp có thể thấy dấu hiệu đe dọa sốc hoặc sốc mất máu như mạch nhanh, huyết áp tụt.
Thông thường, băng huyết sau sinh không xảy ra nữa trong những lần mang thai sau. Tuy nhiên, nguy cơ băng huyết của bạn vẫn cao hơn so với những phụ nữ chưa từng bị băng huyết sau sinh trước đây.
Hãy đảm bảo rằng bác sĩ hoặc nữ hộ sinh của bạn biết về tình trạng băng huyết sau sinh trước đây của bạn để có thể dự phòng tốt nhất.
Để dự phòng băng huyết sau sinh, sản phụ nên thực hiện khám thai đầy đủ và kiểm soát các yếu tố nguy cơ trước sinh. Bổ sung sắt, acid folic và có chế độ dinh dưỡng hợp lý theo chỉ dẫn của bác sĩ để phòng ngừa thiếu máu.