Nhà Trần ép người họ Lý đổi sang họ Nguyễn có thỏa đáng không?

Nhà Trần là triều đại đầu tiên bắt đầu tham gia cuộc chơi "kỵ húy" nhưng có lẽ không phải vì muốn học theo nhà Tống mà coi đó như thủ thuật chính trị.

Điểm trùng hợp then chốt là việc ông nội của Trần Thái Tông lại có tên là Lý nên có cớ quá tiện để ép người họ Lý chuyển sang họ Nguyễn. Không chỉ người họ Lý khi đó phải đổi họ mà truy ngược lên cả các vua Lý trước đây hay thậm chí danh tướng Thường Kiệt cũng phải đổi họ.

Nha Tran ep nguoi ho Ly doi sang ho Nguyen co thoa dang khong?

Lý Thường Kiệt bị đổi thành Nguyễn Thường Kiệt vào đời Trần.

Nhà Lý là triều đại có 200 năm trong lịch sử dân tộc với nhiều danh nhân kiệt xuất mà nay còn lưu trên tên đường phố. Thế nhưng, hậu nhân nhà Lý hiện nay khá ít. Nguyên nhân là khi nhà Trần mới lên thay đã dùng luật để ép người họ Lý phải đổi sang họ khác. Khâm định Việt sử thông giám cương mục chép: "Tháng 4, mùa hạ (1232). Ban chữ huý về tiên tổ nhà vua thờ ở các miếu cho trong kinh đô và ngoài các lộ đều biết", đồng thời bình luận: "Ông tổ nhà vua tên huý là Lý, vì thế đổi họ Lý làm họ Nguyễn, lại có ý dập tắt hẳn lòng dân còn tưởng nhớ đến họ Lý".

Vậy nhà Trần ép người họ Lý đổi sang họ Nguyễn thì có thỏa đáng hay không?

Trước hết nói về cái lý của việc cải họ do kỵ húy. Đây không phải phát minh của nhà Trần mà do ảnh hưởng từ văn hóa thời phong kiến bên Trung Quốc. Kỵ húy tên người thân vốn bắt đầu hình thành từ nhà Chu (Tả truyện thời Tề Hoàn công chép: Người đời Chu thờ người quá cố bằng tên húy, còn gọi lúc sinh thời, lúc chết giấu đi). Sau được Khổng Tử nâng cao quan điểm trong kinh Xuân Thu khi "không chép tên bậc tôn trưởng, không chép tên cha mẹ, không chép tên người thường".

Đến thời Tần (306-255TCN) thì Tần Thủy Hoàng bắt đầu quan tâm việc kiêng húy tên vua. Tần Thủy Hoàng vốn họ Doanh tên húy là Chính nên cấm dùng chữ Chính mà đổi mọi chữ Chính thành từ đồng nghĩa là Đoan. Và sợ người đời đề cập đến người cha Tử Sở của mình nên Tần Thủy Hoàng cũng cấm luôn từ Sở mà đổi thành từ Kinh. Các đời sau tiếp nối nhà Tần nên theo sẵn truyền thống quản chặt việc cấm tên húy của vua rồi nâng tầm phát triển mở rộng. Sau khi Lưu Bang lập nhà Hán (206TCN - 220) thì kiêng dùng chữ Bang mà đổi thành Quốc, Lữ hậu kiêng chữ Trĩ, Hán Văn Đế Lưu Hằng kiêng dùng chữ Hằng nên đổi thành chữ Thường... Tuy nhiên, thời Tần hay Hán thì việc kiêng húy cũng chỉ dùng cho các vua đương triều hay cùng lắm là truy về một đời như Tần Thủy Hoàng. Đến thời Tấn (265-420) thì lệ kỵ húy nghiêm ngặt hơn với các định lệ phức tạp hơn khi kỵ húy đến 7 đời. Các triều đại sau có quy định khác nhau về kỵ húy nhưng theo xu hướng thêm nhiều hơn bớt.

Khoảng thời gian nhà Trần thay ngôi nhà Lý thì bên Trung Quốc khi đó đang là nhà Tống vốn rất nghiêm ngặt việc kị húy. Sách Dung trai tam bút viết: "Phong tục bản triều sùng chuộng văn học, cho nên lễ quan mỗi khi bàn luận về chữ húy lại muốn tăng thêm, các miếu húy bèn lên đến hơn 50 chữ. Sĩ tử làm bài thi gặp chữ còn ngờ thì không dám dùng. Quyển thi nào phạm húy thì đều bị ngầm đánh hỏng".

Việc nhà Trần áp dụng việc kỵ húy có vẻ bị ảnh hưởng từ nhà Tống? Thực tế thì không chỉ nhà Trần mà cả các triều Liêu, Kim rồi Mông Cổ sau khi thôn tính nhà Tống cũng lại đi theo trào lưu kỵ húy cho dù người Liêu, Kim hay Mông trước đó đều chưa có chữ viết trong khi ngôn ngữ là đa âm tiết chứ không phải đơn tiết như người Hán.

Tại sao họ lại chạy theo phong trào kỵ húy thế? Các nhà Liêu, Kim, Mông đều thích lễ nghi, tiết chế mà người Hán tạo sẵn vốn đặc biệt coi trọng người lãnh đạo, tức là vua. Họ rập khuôn theo nhiều điều trong tiết chế của người Hán khi đặt nền cai trị lên người Hán và áp dụng luôn kỵ húy với tên nhà vua. Đặt trong bối cảnh lịch sử của nhà Trần khi đó thì việc học theo các triều đại phương Bắc các nghi lễ đã được nhào nặn nhiều đời, trong đó có việc kị húy tên vua nhà Trần có vẻ rất hợp lý.

Tuy nhiên, điều không thỏa đáng ở đây nằm ở chỗ trước nhà Trần, các triều đại trước ở nước ta không nhắc gì đến việc kỵ húy cả. Trong cuốn "Nghiên cứu chữ húy Việt Nam qua các triều đại" của nhà nghiên cứu Ngô Đức Thọ có ghi lại việc khảo cứu về kị húy nước ta thời xưa. Theo đó, đời Đinh - Tiền Lê thì trên các cột kinh đã được phát hiện tại vùng cố đô Hoa Lư, không thấy các chữ viết kiêng húy. Còn đời Lý, trong số 9 đơn vị kim thạch văn (8 văn bia hiện có bản dập lưu ở viện Hán Nôm và 1 chuông ở Bảo tàng lịch sử VN) có 5 đơn vị ghi tên 3 chữ húy của 3 vua đời Lý là: 1 chữ Uẩn (Thái Tổ Lý Công Uẩn), 2 chữ Tôn (Thánh Tông Lý Nhật Tôn), 5 chữ Đức (Nhân Tông Lý Càn Đức). Các chữ đó đều được viết bình thường tức là đủ nét, không cần viết nhô lên cao hay theo kiểu đặc biệt gì cả. Từ kết quả đó, nhóm khảo sát khẳng định: từ đời Lý trở về trước, nước ta chưa có định lệ kiêng húy về chữ viết.

Nhà Trần là triều đại đầu tiên bắt đầu tham gia cuộc chơi kỵ húy nhưng có lẽ không phải vì muốn học theo nhà Tống mà coi đó như thủ thuật chính trị để cho họ Lý rơi vào quên lãng. Điểm trùng hợp then chốt là việc ông nội của Trần Thái Tông lại có tên là Lý nên có cớ quá tiện để ép người họ Lý chuyển sang họ Nguyễn. Không chỉ người họ Lý khi đó phải đổi họ mà truy ngược lên cả các vua Lý trước đây hay thậm chí danh tướng Thường Kiệt cũng phải đổi họ. Trong Đại Việt sử lược viết vào thời Trần thì triều Lý viết là triều Nguyễn, vua Lý là vua Nguyễn. Ví dụ: "Vua Thái Tổ tên húy là Uẩn, họ Nguyễn người ở Cổ Pháp thuộc Bắc Giang" hay "Mùa hạ, tháng 4, Nguyên soái Nguyễn Thường Kiệt bắt được Đệ Củ ở biên giới Chân Lạp" (Lý Thường Kiệt vốn họ Ngô được vua Lý ban cho quốc tính rồi sang thời Trần thì "được" đổi thành họ Nguyễn).

Vậy tại sao nhà Trần đã kị húy họ Lý chặt như vậy mà về sau vẫn có tướng mang họ Lý phục vụ cho nhà Trần (theo lời của sử gia Ngô Sĩ Liên) hay việc có trạng nguyên Lý Đạo Tái thời Trần Thánh Tông? Có thể tin rằng việc kỵ húy chữ Lý chỉ được làm chặt trong thời gian đầu khi nhà Trần chưa có chỗ đứng vững chắc trong lúc vẫn sợ nhân tâm hướng về họ Lý, sợ rằng trong dân có ai mang họ Lý nổi lên thì nhiều phiền toái.

Nhưng về sau thì nhà Trần đã có chỗ đứng vững chắc trong lòng người dân, nhất là sau 3 đời Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông lãnh đạo quân dân cả nước 3 lần đánh tan quân xâm lược nhà Nguyên. Khi đó thì việc kỵ húy chữ Lý không còn bị quản chặt nữa. Thậm chí, Trần Anh Tông còn dùng việc kỵ húy để tôn vinh họ Lý cũng là họ ngoại của vua Trần vì Trần Thánh Tông là con của Thuận Thiên công chúa hay chính xác thì Trần Thánh Tông chính là cháu ngoại của Lý Huệ Tông. Tháng 9.1304, Trần Anh Tông ra chiếu cấm viết 8 chữ miếu húy nhà Lý: Uẩn (Lý Công Uẩn), Mã (Lý Phật Mã), Tôn (Lý Nhật Tôn), Đức (Lý Càn Đức), Hoán (Thần Tông Lý Dương Hoán), Tộ (Anh Tông Lý Thiên Tộ), Cán (Cao Tông Lý Long Cán), Sảm (Huệ Tông Lý Hạo Sảm).

Trong các đời vua Trần thì Trần Anh Tông là người tích cực nhất trong việc ban chữ kỵ húy. Trong 8 điều lệnh kiêng húy nhà Trần còn được chép lại thì có đến 5 lệnh kiêng húy do Trần Anh Tông ban. Vua Trần Anh Tông cũng là người dùng việc kị húy để tôn vinh một nhân vật gây tranh cãi trong họ Trần là Trần Liễu. Tuy Trần Liễu từng bị thất thế sau vụ nổi loạn ở sông Cái nhưng Trần Anh Tông cũng là hậu duệ trực tiếp của ông (bà nội của Trần Anh Tông hay mẹ của Trần Nhân Tông chính là con gái của Trần Liễu). Vua Trần Anh Tông còn ban lệnh cấm tên húy của cả các thái hậu đời trước rồi cha vợ (Trần Quốc Tảng).

Sử chép: Giáp Ngọ, Hưng Long năm thứ 2 [1294], (Nguyên Chí Nguyên năm thứ 31). Mùa xuân tháng 2, ngày mồng 7 ban bố các chữ quốc húy: chữ húy của vua là Thuyên, của Nhân Tông là Khâm, của Thánh Tông là Hoảng; của Thái Tông là Cảnh, của Thái Tổ là Thừa, của Nguyên Tổ là Lý; các chữ nội húy: Thánh Từ hoàng hậu là Phong, Thuận Từ hoàng hậu là Diệu, Hiển Từ hoàng hậu là Oanh, Nguyên Thánh hoàng hậu là Hâm.

Kỷ Hợi, [Hưng Long] năm thứ 7 [1299], (Nguyên Đại Đức năm thứ 3). Mùa xuân, tháng 4, ngày 12, xuống chiếu cấm chữ húy của Khâm Minh Đại Vương và Thiện Đạo quốc mẫu (Khâm Minh tên húy là Liễu, Thiện Đạo tên húy là Nguyệt; Thiện Đạo là phu nhân của Liễu) khi làm văn không được dùng. Các các chữ Ngụy, Thấp, Nam, Càn, Tô, Tuấn, Anh, Tảng khi làm văn phải viết bớt nét.

Hộp sọ của vua Tống trở thành cốc uống rượu

Nhiều nơi trên thế giới có ghi chép về việc lấy đỉnh sọ người làm cốc rượu hay còn gọi là "Cốc Đầu Lâu".

Một số tộc người du mục có thói quen lấy hộp sọ của đối phương làm cốc rượu như Thiền Vu Hung Nô thời Hán giết vua nước Nguyệt Chi rồi lấy hộp sọ làm thành cốc.

9 năm phải sống trong giam cầm, vua Tống vẫn sinh được 14 người con

Một vị vua mất nước sao có thể sinh được đến 14 người con trong vòng 9 năm bị bắt bớ giam cầm.

Hoàng đế là quân chủ của một quốc gia, chân mệnh thiên tử của một triều đình cũng như là khuôn thước của muôn vạn con dân.

Trên cương vị của một hoàng đế, đó phải là người có lòng can đảm hơn người, nắm giữ quyền hành trong tay, lại giỏi giang hết mực, nhìn thấu lòng người, mạnh mẽ và quyết đoán.

Cho dù phải đối diện kẻ thù, đối mặt với tình cảnh nước mất nhà tan cũng sẽ không khom lưng cuốn gối, đánh mất đi khí phách cần có của một bậc đế vương.

Tiếc thay, Tống Huy Tông Triệu Cát lại không phải là vị hoàng đế như vậy. Đường đường là quân chủ của một quốc gia, thế nhưng nhìn thấy cảnh xã tắc lâm nguy, hành động của Triệu Cát lại là ...tháo chạy.

Trước khi bỏ chạy, vẫn không quên gấp rút truyền ngôi cho thái tử Triệu Hoàn, để không phải mang danh "vị vua mất nước".

Bị bắt làm tù binh vẫn ăn chơi hưởng lạc

Về sau, khi bị người Kim bắt làm tù binh, Triệu Cát chẳng những nhận cái chức danh đầy mỉa mai châm biếm "Hôn Đức Công" (tước vị phong cho một số vị vua bị phế truất) mà còn chấp nhận hàng loạt điều kiện mà ngườ Kim đưa ra.

Chưa dừng lại ở đó, trong thời gian bị giam cầm, ông ta vẫn thản nhiên lao đầu vào cuộc sống đầy cao lương mỹ tửu, ong bướm rập rìu. Chẳng thế mà ông ta đã sinh những 14 người con chỉ sau vẻn vẹn 9 năm.

Tranh chân dung Tống Huy Tông Triệu Cát.

Quay trở lại năm 1126, sau công nguyên (năm Tĩnh Khang đầu tiên), quân Kim tiến giáp thành, Triệu Cát lập tức truyền ngôi cho thái tử Triệu Hoàn.

Tháng 3 năm sau, hai cha con họ đều bị người Kim bắt làm tù binh, một mạch đưa tới Ngũ Quốc thành (nay là Y Lan, Hắc Long Giang), bắt đầu những chuỗi ngày bị giam hãm tại nơi đây.

Do không trả nổi số tiền bồi thường cho người Kim, Tống Huệ Tông đang tâm dùng phi tần, công chúa của mình gán nợ cho nước Kim, trong đó đích nữ vương phi, con cháu hoàng thất mỗi người được quy ra giá là 1000 lượng vàng; các thứ nữ, thê thiếp còn lại mỗi người giá khoảng 500 lượng vàng.

Những cô gái hoàng thất vốn từng là lá ngọc cành vàng giờ đây lại trở thành nô lệ trong tay người Kim.

Trong khi đó, Tống Huy Tông ngang nhiên chấp nhận phong hiệu, nhà cao cửa rộng, ruộng đồng tươi tốt của người Kim ban cho.

Tuy rằng những thứ này còn cách xa so với cuộc sống khi còn trên ngai vàng, thế nhưng dù sao cũng vẫn có cơm no rượu say, sống những ngày tháng phiêu diêu tự tại.

Cứ như thế, ông ta đã sinh ra cả thảy 14 người con, 6 trai và 8 gái.

Song, sách "Tĩnh Khang bái sử tiên chứng", chương "Tống phù ký" (ghi chép lưu đày thời Tống) có viết:

Biệt hữu tử nữ ngũ nhân, cụ lục niên xuân sinh, phi hôn đức dận.

9 nam phai song trong giam cam, vua Tong van sinh duoc 14 nguoi con-Hinh-2

Ảnh minh họa.

Ngoài 14 người kể trên, Tống Huy Tông còn có 5 người con. Mặc dù do thê thiếp của ông ta sinh thành nhưng không phải là con đẻ của Tống Huy Tông.

Hai chữ "biệt hữu" trong câu trên quả thực ý vị sâu xa, khiến người ta không khỏi suy ngẫm. Đối với một cựu hoàng đế, một người đàn ông mà nói, đây quả là một điều vô cùng nhục nhã.

Người Kim từng bước từng bước đưa ra những chiêu trò khiêu khích, hết lần này đến lần khác sỉ nhục Tống Huy Tông, cuối cùng cũng khiến cho tinh thần của ông ta suy sụp.

Vào ngày Giáp Tý, tháng 4 năm Thiên Hội thứ 13 (nước Kim), tức năm 1135, Tống Huy Tông ý thức được rằng bản thân không còn hy vọng trở về tổ quốc mà đau không thiết sống.

Ông ta vĩnh viễn nhắm mắt tại Kim quốc, hưởng thọ 54 tuổi. Kim Hi Tông cho an táng tại đất Hà Nam (nay là khu vực gần Lạc Dương, Hà Nam).

Trong những ngày tháng bị giam cầm, Tống Huy Tông viết rất nhiều câu thơ đầy những uất hận, ai oán, thê lương. Trong đó áng thơ để lại ấn tượng sâu sắc nhất phải kể tới "Tại bắc đề bích ":

Triệt dạ tây phong hám phá phi

Tiêu điều cô quán nhất đăng vi

Gia sơn hồi thủ tam thiên lí

Nhật đoạn thiên nam vô nhạn phi.

9 nam phai song trong giam cam, vua Tong van sinh duoc 14 nguoi con-Hinh-3

Ảnh minh họa.

Dịch nghĩa:

Cuộc sống vinh hoa phú quý ngày xưa giờ đã tan thành mây khói

Nỗi đau mất nước

Nỗi nhục tù đày

Mọi thứ đều chỉ còn tiếng thở dài không nói hết.

Giữa mênh mông lạnh lẽo nơi đất Bắc, Tống Huy Tông chỉ có thể bày tỏ nỗi lòng đau thương với ngọn đèn leo lắt.

Người ta nói rằng, bi kịch của Triệu Cát vốn đã được định sẵn kể từ khi mới lọt lòng.

Đáng lẽ, ông có thể trở thành một thi nhân, họa sĩ, nhà thư pháp lẫy lừng, chẳng ngờ lại sinh ra trong gia đình bậc đế vương để rồi phải trở thành "đại hôn quân" trong mắt người đời.

Sách "Tống sử" viết một câu bình về Tống Huy Tông như sau:

Chư sự giai năng, độc bất năng vi quân nhĩ - nghĩa là giỏi giang nhiều việc, chỉ duy nhất việc làm vua là không có khả năng.  

Đại tướng nhà Tống "nướng" 10 vạn quân ở Như Nguyệt vì thủy binh câu giờ

Vấn đề đặt ra là tại sao nhà Tống lại phải đem lực lượng ô hợp như vậy để nướng quân trên biển? Đơn giản vì Tống Thần Tông muốn nóng lòng đánh gấp để sau khi thắng là phải rút lại chủ lực về biên giới phía Bắc.

Chiến thắng của Lý Kế Nguyên tạo bước ngoặt

Trong chiến thắng trước quân Nguyên Mông thì trận thủy chiến then chốt tại Vân Đồn đã tạo ra bước ngoặt. Danh tướng Trần Khánh Dư đánh bại đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ đã khiến cho quân Nguyên không còn giữ được thế chủ động và liên tiếp mắc sai lầm. Còn trong chiến thắng của quân dân ta thời nhà Lý trước cuộc xâm lược của nhà Tống thì chiến thắng trong trận thủy chiến cũng gần Vân Đồn đã tạo ra bước ngoặt.