Đại tướng nhà Tống "nướng" 10 vạn quân ở Như Nguyệt vì thủy binh câu giờ

Vấn đề đặt ra là tại sao nhà Tống lại phải đem lực lượng ô hợp như vậy để nướng quân trên biển? Đơn giản vì Tống Thần Tông muốn nóng lòng đánh gấp để sau khi thắng là phải rút lại chủ lực về biên giới phía Bắc.

Chiến thắng của Lý Kế Nguyên tạo bước ngoặt

Trong chiến thắng trước quân Nguyên Mông thì trận thủy chiến then chốt tại Vân Đồn đã tạo ra bước ngoặt. Danh tướng Trần Khánh Dư đánh bại đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ đã khiến cho quân Nguyên không còn giữ được thế chủ động và liên tiếp mắc sai lầm. Còn trong chiến thắng của quân dân ta thời nhà Lý trước cuộc xâm lược của nhà Tống thì chiến thắng trong trận thủy chiến cũng gần Vân Đồn đã tạo ra bước ngoặt.

Dai tuong nha Tong

Sau khi Lý Thường Kiệt đại phá Ung Châu, Tống Thần Tông đã tập hợp một lực lượng lớn trao quyền cho Quách Quỳ và Triệu Tiết để vừa trả đũa, vừa tìm cách xâm lược nước ta. Vì nóng lòng đánh nhanh, thắng nhanh nên vua Tống đặt trọn niềm tin vào lực lượng đánh trên bộ gồm bộ binh và kỵ binh. Khoảng 10 vạn quân, 1 vạn ngựa với sự phục vụ của 20 vạn dân phu được huy động trong cuộc chiến xâm lược của nhà Tống. Trong số này có 1 nửa là quân tinh nhuệ được huy động từ biên giới với Liêu, Tây Hạ vốn dạn dày chiến đấu.

Thậm chí, nhà Tống đã tính đến việc phá thành khi kéo quân đến sát thành Thăng Long khi mang rất nhiều khí cụ hiện đại khi ấy như máy bắn đá, xe công thành... Thế nhưng, có một cái mà nhà Tống tính dở là đầu tư không tốt cho thủy quân. Thực ra, lực lượng thủy quân nhà Tống không hề ít nhưng mà thiếu chất lượng hay nói theo kiểu người phương Bắc là tuy đông nhưng lại ô hợp. Theo sách Nghệ thuật đánh giặc giữ nước của dân tộc Việt Nam thì thủy quân Tống có đến hơn 5 vạn quân, do tướng Dương Tùng Tiên chỉ huy. Dương Tùng Tiên được vua Tống phong làm An Nam đạo hành doanh Chiến trạo đô giám, phối hợp với một số quan chức khác phụ trách từ tuyển mộ quân, trưng thu thuyền đến vạch kế hoạch tác chiến.

Như vậy có thể thấy thủy quân của Tống về số lượng thì rất đông đảo. Trong khi đó, thủy quân Việt lại phải chia làm 2. Phần lớn lực lượng tập trung cho việc bảo vệ phòng tuyến Như Nguyệt dưới sự chỉ huy của 2 hoàng tử là Hoằng Chân và Chiêu Văn với khoảng 400 thuyền và 2 vạn quân. Phần còn lại do danh tướng Lý Kế Nguyên đóng gần Vân Đồn với số lượng có lẽ dưới 2 vạn. Tuy nhiên, thủy quân ta lại có lợi thế là thạo địa hình sông nước và tinh thần chiến đấu cao.

Kết quả thủy binh Tống đã bị đội binh thuyền ta, do Lý Kế Nguyên chỉ huy, chặn lại ở Vĩnh An. Chúng cố gắng đánh mở đường để theo sông Đông Kênh tiến vào cửa sông Bạch Đằng, nhưng 10 trận liền bị quân ta đánh bại, không sao nhích lên được một bước. Đánh không thắng, quay về thì sợ tội, tiến không được, thoái không xong, Dương Tùng Tiên dùng chiêu câu giờ cho thuyền lượn lờ chiếu lệ trên biển đến hàng mấy tháng trời và gởi thư về đất liền Tống nói rõ ý của mình là lo giũ lực lượng để phòng vệ duyên hải:“Vừa rồi, tôi gặp quân liên lạc của giặc mang lệnh của viên hành quân chiêu thảo sứ bên giặc là Lý Kế Nguyên. Sau đó nhiều lần tôi đánh chúng, nhưng chúng không có ý khuất phục. Vậy xin hãy ra lệnh phòng bị nghiêm ngặt ở biên giới để tránh sự bất ngờ”.

Cuốn Một số trận chiến chiến lược trong lịch sử Việt Nam phân tích: "Binh lực chủ yếu và tinh nhuệ của quân Tống vẫn là bộ binh và kỵ binh. Trong cuộc chiến tranh xâm lược nước ta, các đạo bộ binh trong đó có kỵ binh cũng giữ vai trò những mũi tiến công quyết định. Còn thủy binh chỉ là lực lượng phối hợp nhằm hiệp đồng với bộ binh, tổ chức vượt sông để tiến sâu vào nước ta. Nhà Tống đề ra nhiệm vụ của thủy binh là vượt biển tiến vào nước ta để ”ghé thuyền vào bờ bắc chờ đại quân qua sông, vì trên đường bộ tiến binh đến kinh thành giặc còn cách sông lớn, người Giao lại giỏi thuỷ chiến, sợ thuyền giặc giữ các chỗ hiểm, đại binh khó lòng qua được” (Lý Đào, Tục tư trị thông giám trường biên, sách đã dẫn). Lực lượng thúy binh này mới được tổ chức gồm những người dân chài ven biển Quảng Đông bị nhà Tống bắt vào lính. Họ chưa quen chiến trận, lại không có tinh thần chiến đấu".

Rốt cuộc 5 vạn thủy quân Tống, nhiều gấp đôi, thậm chí gấp ba so với thủy quân nhà Lý nhưng cũng không thể đạt được mục đích vượt cửa Bạch Đằng vào tiếp viện cho Quách Quỳ. Lý do như đã phân tích là lượng tuy đông nhưng chất lại thấp. Quân thủy nhà Tống mà được tổ chức gấp gáp chưa được tập luyện thực chiến nhiều nên ra biển là thua. Cũng phải nói rằng thời đó, quân phương Bắc gồm cả Tống, Hạ, Liêu hay các triều trước thời Ngũ đại cũng toàn đánh nhau trên bộ, hay cùng lắm là vài trận nhỏ trên sông chứ không mấy khi đánh nhau ở ngoài biển nên thua trước cửa Bạch Đằng cũng là điều dễ hiểu.

Vấn đề đặt ra là tại sao nhà Tống lại phải đem lực lượng ô hợp như vậy để nướng quân trên biển? Đơn giản vì Tống Thần Tông muốn nóng lòng đánh gấp để sau khi thắng là phải rút lại chủ lực về biên giới phía Bắc nên không có thời gian chuẩn bị chu đáo cho lực lượng trên biển. Tống Thần Tông đặt quá nhiều kỳ vọng vào kỵ binh và bộ binh của Quách Quỳ - Triệu Tiết trong khi xem nhẹ năng lực thủy quân nhà Lý.

Vì không có lực lượng thủy binh xuống phối hợp, Quách Quỳ đã mắc sai lầm khi ép bộ binh phải đóng vai thủy binh. Có 2 lần Quách Quỳ dùng bộ binh vượt sông. Lần thứ nhất là dùng cầu phao sau khi nghe tin đồn là quân Lý ở bờ nam Như Nguyệt trốn đi hết. Quách Quỳ cho phép tướng Vương Tiến bắc cầu phao cho đội xung kích của Miêu Lý khoảng 2.000 người vượt sông. Lợi dụng được yếu tố bất ngờ, Miêu Lý vượt sông đã thành công, chọc thủng được phòng tuyến của quân Lý, tiến khá sâu hướng vào Thăng Long. Nhưng đến vùng Yên Phụ, Thụy Lôi thì bị phục kích, bao vây. Miêu Lý cùng những binh sĩ còn sống chạy về phía Như Nguyệt nhưng đến nơi thì cầu phao đã bị hủy và gặp quân nhà Lý đón đánh và bị diệt gần hết, dù quân Tống đóng bên bờ bên kia có cố gắng cho bè sang hỗ trợ.

Sau lần đó, Quách Quỳ lại kiên trì chờ thủy binh nhưng mãi không thấy bóng dáng Dương Tùng Tiên đâu. Ngồi một chỗ thì miệng ăn núi lở nên Quách Quỳ phải mạo hiểm. Lần thứ hai, quân Tống dùng một lực lượng mạnh hơn nhiều so với lần trước và đóng bè lớn với sức chứa khoảng 500 quân để vượt sông. Bè chở quân Tống đổ sang bờ nam kiểu "trả góp" cứ 500 người một lượt là bè lại phải chèo về đón lượt sau qua sông. Khổ thay đám quân đổ bộ vừa đặt chân xuống bờ nam đã phải phải chống lại các đợt phản công mãnh liệt của quân nhà Lý trong khi việc vượt qua lũy hào rất khó khăn. Bè chở binh tiếp viện lại không qua kịp nên thật sự là Quách Quỳ đã nướng quân.

Người Tống thời đó mô tả trận đánh như sau: “Dùng bè chở 500 quân vượt sông, vừa chặt vừa đốt mấy lớp trại rào tre không được, đem bè không về để chở cứu binh nhưng lại bị giặc (chỉ quân Lý) bắt giết. Thế là quân ta (Tống) không được cứu, kẻ trốn, kẻ chết, không thành công được” (Trình Di, Trình Hạo, Nhị Trình di thư). Đợt tấn công lần hai lại kết thúc với thất bại nặng nề khiến Quách Quỳ thấy rằng, nếu không có thủy binh hỗ trợ sẽ không thể vượt sông được, buộc phải ra lệnh đưa quân về thế phòng thủ và tuyên bố rằng: "Ai bàn đánh sẽ chém!". Tất nhiên là chẳng có thủy quân nào đến nữa.

Chính chuyện không có thủy quân cộng với việc thiệt hại nặng sau khi bị quân nhà Lý phản công nên Quách Quỳ sau đó chấp nhận việc hòa để tiện đường rút quân. Một thời gian sau, Dương Tùng Tiên mới biết Quách Quỳ phải rút quân nên cũng thoái lui luôn. Trong số 10 vạn lính Tống dưới trướng Quách Quỳ - Triệu Tiết ban đầu chỉ còn 23.400 lính trở về, 1 vạn ngựa chiến thì còn lại 3.174 con. Số dân phu 20 vạn trở về không được một nửa. Bao nhiêu số đó đã thiệt mạng chỉ vì thủy quân còn câu giờ ngoài biển? Nhưng cũng chẳng trách được thủy quân Tống khi chính họ cũng nướng không ít nhân mạng trong 10 lần đối đầu với thủy quân của Lý Kế Nguyên.

Cuộc chiến tổn thất 5,1 triệu lượng vàng và sự khiếp sợ của quân Tống

Nhà Tống từng hai lần đem quân xâm lược nước ta, nhưng cuối cùng đều bị đánh cho tan tác, phải tháo chạy về nước trong tủi hổ.

Số phận bi thảm của công chúa đẹp nhất nhà Tống

Với dung mạo xuất chúng hơn người, Triệu Phúc Kim được mệnh danh là một trong những nàng công chúa xinh đẹp nhất của nhà Tống.

Triệu Phúc Kim là con gái của Tống Huy Tông Triệu Cát, triều nhà Tống. Trong hơn 30 con gái của Tống Huy Tông, nàng là người kiều diễm nhất, tài hoa nhất, và cũng là người con gái được Hoàng đế yêu thương nhất.

Sinh mẫu của Triệu Phúc Kim là Minh Đạt Hoàng hậu Lưu thị. Năm 1 tuổi, nàng được Hoàng đế ban phong hiệu Diên Khánh công chúa.

Giết hụt hôn phu, người phụ nữ gây ra "địa chấn" chốn quan trường nhà Tống

Chỉ là một vụ án nhỏ của tầng lớp dân nghèo, tại sao lại có thể kinh động đến cả triều đình nhà Tống.

Thời Tống Thần Tông, ở Đăng Châu, Sơn Đông có một người phụ nữ tên là A Vân, trong thời gian chịu tang mẹ, cô được hứa gả cho Vĩ A Đại.

Bởi vì quá xấu xí, nên Vĩ A Đại thường bị vị hôn thê của mình là A Vân chê bai. Vừa nghĩ đến việc qua thời gian chịu tang mẹ, bản thân lại bị gả cho một người xấu xí như vậy, A Vân cảm thấy vô cùng đau khổ.

Thời gian cứ thế trôi qua, A Vân vì căm ghét vị hôn phu xấu xí của mình nên quyết định ra tay giết Vĩ A Đại, cô nghĩ nếu Vĩ A Đại chết rồi hôn ước cũng sẽ theo đó mà được giải trừ.

Một đêm nọ, A Vân âm thầm đi đến nhà Vĩ A Đại, nhân lúc Vĩ A Đại đang ngủ say, cô vung dao chém lung tung lên người vị hôn phu, sau đó vội vàng bỏ chạy.

Có lẽ do quá khẩn trương, lo lắng, cũng có thể vì không có kinh nghiệm hoặc bởi vì do trời tối, cho nên dao của A Vân đã không hại chết được vị hôn phu mà chỉ chặt đứt một ngón tay của anh ta.

Vĩ A Đại bị thương đi đến báo quan, hung thủ A Vân nhanh chóng bị bắt.

Kinh động đến cả triều đình, Hoàng đế vào cuộc cũng không thể giải quyết ổn thỏa

Theo "Tống luật" (tức Luật pháp nhà Tống), mưu sát chồng là tội nặng, tội phạm sẽ bị phán tội tử hình. A Vân là vợ chưa cưới của Vĩ A Đại, chiếu theo luật này, Tri huyện đại nhân phán A Vân tội tử hình đồng thời báo lên Tri phủ phê chuẩn.

Giet hut hon phu, nguoi phu nu gay ra

Ảnh minh họa.

Vụ án được đưa lên Phủ Đăng Châu. Sau khi đọc rõ tình tiết vụ án, Tri phủ Hứa Tôn rất cảm thông với A Vân, ông căn cứ vao việc A Vân vẫn trong thời gian chịu tang mẹ nên hôn ước không có hiệu lực, hơn nữa bên bị hại cũng chưa chết, theo sắc lệnh giảm án "Tòng giảm đẳng đoạn khiển" do Hoàng đế ban hành, Hứa Tôn cho rằng chỉ nên phán A Vân tù giam có thời hạn.

Sau đó, Hứa Tôn đem bản án trình lên Đại Lý Tự, đưa ra đề nghị giảm án cho A Vân để xin phê duyệt. Chính vì thế, nên vụ án này được trình lên triều đình Bắc Tống, đồng thời được ghi chép vào sử sách.

Cơ quan xét xử tối cao Thẩm hình viện cùng Đại Lý Tự cho rằng, A Vân dù chưa phải là vợ chính thức của Vĩ A Đại, nhưng lại có ý đồ giết người, cho nên đáng bị khép vào tội tử hình.

Phán quyết của Hứa Tôn đã xem xét đến sắc lệnh của Hoàng đế, mang tính chất tình cảm nằm ngoài luật pháp, còn kết luận của Hình Bộ là để duy trì uy nghiêm của luật pháp Bắc Tống, chỉ xét đến tính chất sự việc, xem việc phán tội.

Hai bên tranh chấp qua lại, còn động chạm đến vấn đề xung đột giữa Hoàng quyền và quốc pháp, đến cuối cùng Tống Thần Tông buộc phải vào cuộc.

Vương An Thạch ủng hộ ý kiến của Hứa Tôn yêu cầu giảm án, còn Tư Mã Quang lại kiên quyết muốn xử tử A Vân, hai bên tranh chấp mãi không thôi, sau cùng Tống Thần Tông ra chiếu chỉ đồng thuận với Vương An Thạch.

Giet hut hon phu, nguoi phu nu gay ra

Tuy Hoàng đế đã hạ lệnh, nhưng các quan đại thần phái bảo thủ vì muốn duy trì lễ pháp và pháp luật triều đình, kiên quyết không chịu nhượng bộ. Không còn cách nào khác, Tống Thần Tông phải mời Hàn Lâm viện xem xét vụ án, kết luận cuối cùng vẫn là đồng thuận với ý kiến của tể tướng Vương An Thạch.

Song, Hình Bộ vẫn kiên quyết bác bỏ sắc lệnh miễn tội chết cho A Vân của Tống Thần Tông, thậm chí còn luận tội Hứa Tôn làm việc thiên vị, coi thường pháp luật.

Về chuyện này, Tống Thần Tông đã cho điều Hứa Tôn vào kinh thành, cho đảm nhận chức vụ ở Đại Lý Tự để biểu đạt lập trường của bản thân.

Nhưng dù Hoàng đế năm lần bảy lượt bày tỏ lập trường, ý kiến của bản thân, nhưng các quan đại thần lại chẳng đoái hoài, pháp quan của Thẩm hình viện cùng Đại Lý Tự vẫn nhiều lần dâng tấu, ép đến mức Tống Thần Tông phải triệu Vương An Thạch cùng những người liên quan vào biện luận đến lần thứ ba.

Nhưng, cho dù Vương An Thạch có nói như thế nào đi nữa, hay Tống Thần Tông có ám chỉ ra sao, các vị pháp quan cũng kiên quyết không nhượng bộ, bắt buộc phải khép A Vân vào tội chết.

Không còn cách nào khác, Tống Thần Tông buộc phải đích thân ra mặt, hạ chiếu "Từ nay, kẻ phạm tội giết người nếu ra tự thú có thể xem xét giảm án".

Sắc lệnh này khiến các học giả, quan chức mà đứng đầu là Tư Mã Quang kịch liệt phản đối, Hình Bộ và Ngự Sử Đài cùng nhau kháng nghị, từ chối chấp hành theo sắc lệnh này của Hoàng đế.

Giet hut hon phu, nguoi phu nu gay ra

Tống Thần Tông nhận thấy tình hình đã quá mức căng thẳng, để làm dịu đi tranh chấp, đã ra chiếu chỉ lần thứ ba, phế bỏ chiếu chỉ lần thứ hai, đồng thời đem vụ án của A Vân giao cho Trung Thư Tỉnh và Khu Mật viện thương nghị, nhưng kết quả là cả hai bên vẫn không đạt được sự nhất trí.

Cuối cùng, Tống Thần Tông tức giận, bãi nhiễm chức vụ Hình quan Lưu Thuật cùng sáu vị quan viên khác, đồng thời hạ chiếu chỉ lần thứ tư, nhấn mạnh việc luật pháp nhà Tống phải tuân theo Hoàng lệnh, cũng tức là phải đặt sắc lệnh của Hoàng đế trên luật pháp.

Đến đây, vụ án của A Vân mới đi đến hồi kết, A Vân tuy có tội âm mưu giết hại vị hôn phu nhưng cuối cùng tránh được tội chết.

Và hồi kết đầy khiêu khích dành cho Hoàng đế

Vụ án của A Vân tưởng chừng như nhỏ bé, nhưng lại kéo theo vô số quan viên Bắc Tống can dự vào, Hoàng đế phải bốn lần hạ chiếu chỉ, Tư Mã Quang cùng các vị đại thần thậm chí còn không tiếc tính mạng kiên quyết kháng lệnh. Tuy nhiên, nguyên nhân thực chất của việc này là vì tranh chấp quyền lực giữa các phe phái đối đầu nhau trong triều.

Thời Bắc Tống, học giả sĩ phu cùng tham gia cai trị thiên hạ, chính vì thế nên Hoàng quyền bị đe dọa. Cũng bởi lí do đó nên Tống Thần Tông hết sức ủng hộ biến pháp của Vương An Thạch, bởi ông hi vọng sau khi thực hiện biến pháp sẽ giúp gia tăng quyền lực tập quyền của Hoàng đế.

Quyền lực quốc gia nằm ở trung ương, quyền lực trung ương nằm ở trung khu, quyền lực trung khu nằm trong tay Hoàng đế, Hoàng đế nắm trong tay quyền lực nhưng biến pháp còn chưa bắt đầu, tầng lớp sĩ phu đã ngăn cản việc Hoàng quyền can dự vào vấn đế tư pháp, Tống Thần Tông làm sao chịu chấp nhận dễ dàng như thế?

Song, thật bẽ bàng là Tống Thần Tống nhất thời cứu được mạng A Vân nhưng đã chẳng thể cứu được cô cả đời. Nghe nói, sau này khi Tư Mã Quang tái nhậm chức đã lật lại vụ án, căn cứ theo luật lệ, ông ta vẫn xử A Vân tội chết.

Tống Thần Tông là vị Hoàng đế thứ sáu của nhà Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc, ông tại vị từ năm 1067 đến năm 1085, tổng hơn 18 năm.

Tống Thần Tông là một vị quân vương có chí trung hưng đất nước. Không lâu sau khi lên ngôi, ông theo đề nghị của Vương An Thạch, quyết định thực hiện tân pháp, cải cách trên nhiều lĩnh vực kinh tế, chính trị, quân sự...

Tuy vậy công cuộc cải cách không thu được hiệu quả như mong muốn do sự cản trở của phe thủ cựu và sự mâu thuẫn ngay trong nội bộ phe tân pháp, dẫn đến Vương An Thạch bị bãi chức và những chính sách mới lần lượt bị thủ tiêu sau khi Thần Tông qua đời.