Lý giải thú vị: Người “cầm vía” lễ Mật là ai?

(Kiến Thức) - "Lễ Mật" là tên gọi mỹ miều của lễ hội phồn thực "linh tinh tình phộc" độc đáo nhất TG diễn ra ở Phú Thọ vào một đêm duy nhất tháng Giêng.

Thường, người ta chỉ nhìn đôi trai gái cầm sinh thực khí đâm vào nhau, ít ai để ý đến người "cầm vía" cho lễ Mật (diễn ra tại đình Trò xóm Trám thuộc xã Tứ Xã (Lâm Thao, Phú Thọ) thành công. Vậy, người "cầm vía" lễ Mật là ai? Phải như thế nào và quan trọng hơn, họ nắm giữ bí quyết, thần chú gì ở vùng đất có thế "ngưu miên"?
Linh tinh thời cổ
Ông Nguyễn Thành Ngữ, 66 tuổi hiện là thủ từ của đình Trò nổi tiếng gần xa. Ông Ngữ bảo, bây giờ thì gọi đó là đình, chứ ngày xưa gọi là miễu hay điếm, điếm Trò là nơi cất giữ biểu tượng sinh dục nam và nữ. Cũng là nơi diễn ra lễ hội "linh tinh tình phộc" vào đêm 11, rạng sáng 12 tháng Giêng hằng năm.
Ông Ngữ nói, lễ hội này nổi tiếng gần xa cũng vì chẳng đâu có. Nó vừa lạ vừa táo bạo lại rất linh thiêng nữa. Nhưng thời xưa, thì duy chỉ có người địa phương biết đến lễ hội này. Vì người nơi khác cứ nghĩ, đó là trò chơi vừa quái thai lại nhăng nhít.
Lễ hội "linh tinh tình phộc" cổ xưa cũng khác bây giờ nhiều lắm. Ông Ngữ kể, trước điếm Trò nằm trên một gò đất cao nhất của làng. Xung quanh có nhiều cây Trò nên đặt là điếm Trò. Bao quanh điếm Trò là rừng Trám nên đặt tên cho làng theo loài cây ấy. Các cụ xưa, cứ lấy tên đình và làng ghép lại thành Trò Trám.
Điếm Trò, nơi diễn ra lễ hội phồn thực độc đáo.
Điếm Trò, nơi diễn ra lễ hội phồn thực độc đáo. 
Gia phả làng có lúc lại ghi là miễu Đụ Đị. Làng có lễ hội ấy nên nhà nào nhà nấy đông con đông cháu lắm. Không phải ngày xưa mới thế, bây giờ cũng vậy, may Nhà nước có chính sách kế hoạch hóa gia đình, nếu không thì...
Ông Ngữ nhắc lời tổ tiên kể rằng, lễ hội này có từ thời Hồng Bàng. Dã sử gọi thời này là thượng cổ Kinh Dương Vương với quốc hiệu Xích Quỷ. Nhiều chuyên gia khảo cổ cho rằng, lễ hội phồn thực của điếm Trò là cổ xưa nhất mang tính phi vật thể còn sót lại. 
Đêm 11, rạng sáng 12 tháng Giêng khi chủ lễ Mật hô bốn chữ "linh tinh tình phộc", tức thì nam thanh nữ tú được chọn cầm bộ phận sinh dục nam và nữ bằng gỗ đâm vào nhau. Nếu trúng thì năm ấy thuận hòa mưa nắng, nếu chệch đi thì y như rằng, vất vả cũng không đủ ăn.
Người "cầm vía" lễ Mật xưa ví như phù thủy, trên thông thiên văn, dưới tường địa lý. Họ có khả năng bắt ma, xích quỷ lại chuyện trò được với thần thánh cõi âm. Nên mỗi thời, chỉ có một người "cầm vía" lễ Mật mà thôi.
Chủ lễ Mật làm nghi thức "linh tinh tình phộc" - ảnh nhân vật cung cấp.
Chủ lễ Mật làm nghi thức "linh tinh tình phộc" - ảnh nhân vật cung cấp. 
Người 30 năm "cầm vía"
Những năm chiến tranh chống đế quốc Mỹ, lễ hội phồn thực điếm Trò đi vào quên lãng. Ngôi đình cổ theo năm tháng mục nát, hai linh khí biểu trưng cho sinh thực khí nam nữ bằng gỗ quý cũng thất lạc mất. Mãi sau năm 1980, lễ hội mới được khôi phục.
Người làng bắt đầu đi tìm cho mình một người "cầm vía" lễ Mật. Nhưng xem ra khó, các cao niên thì người nhớ ít, kẻ nhớ nhiều những lời niệm chú nhưng đều không đạt. Bỗng dưng, trong lúc cả làng đang bế tắc thì ông Chử Bá Thơ năm ấy mới ở ngưỡng 50 tuổi tròn lại tự dưng hiểu biết sách cổ cùng những lời chú thần thánh. Nói theo cách của người theo đạo Thiên Chúa thì tự nhiên được ơn "thiên triệu", tức được gọi vào bậc tu trì phụng vụ.
Vậy là ông Thơ thành người "cầm vía" lễ Mật điếm Trò. Bây giờ, thì người "cầm vía" ấy đã lên chức cụ, tròn 85 tuổi. Nhoáng cái, đã 30 năm cụ Thơ ở ngôi phù thủy của làng. Những lễ nghi, câu chú đến diễn văn Hán Nho cụ đều thuộc làu. 
Chiếc hòm đựng sinh thực khí nam nữ.
Chiếc hòm đựng sinh thực khí nam nữ. 
Cụ Thơ kể, ngày trước chọn người cầm nõ - nường đêm lễ Mật thì phải là trai tân - gái trinh. Nhưng bây giờ, bọn trẻ hay ngượng không dám làm nên phải chọn người đã có gia đình.
Đêm lễ Mật, cụ Thơ phải bí mật làm những nghi thức mà chỉ người "cầm vía" mới được biết. Sau khi đọc diễn văn, những câu hát lạ lùng được xướng lên, người ta gọi là hát Nhấy Nhả: Ai làm cho vú em sưng, cho bụng em ỏng, cho lưng em gù/Tại vì cái bố thằng cu, đêm đêm nó chọc cái mu con rùa.
Sau màn đối đáp, chủ lễ Mật hô lớn: Linh tinh tình phộc, tức thì điện tắt và đôi trai gái cầm nõ - nường đâm vào nhau. Chủ lễ lại hô lớn ba lần: Tháo khoán, trai gái yêu nhau sẽ chọn cho mình bụi cây hay gốc trám để hòa mình cùng lễ hội phồn thực.
Cụ Thơ bảo, linh vật sinh vật khí nam nữ là bảo vật của điếm Trò. Mỗi năm, đến giờ thiêng thì chủ lễ mới được phép đưa ra cho mọi người chiêm ngưỡng. Sau lễ, chủ lễ lại cất vào một chiếc hòm được niêm phong cẩn thận.     
Chiếc đàn giằng dùng trong điệu hát Nhấy Nhả.
 Chiếc đàn giằng dùng trong điệu hát Nhấy Nhả. 
Đất trâu ngủ 
Vùng đất xóm Trám vốn được mệnh danh là thế "ngưu miên". Cụ Thơ giải thích là thế đất trâu ngủ. Khi nào con trâu thức giấc thì cả làng sẽ giàu có, hưởng lộc không hết. Nhưng bao giờ trâu thức giấc lại là câu hỏi đến nay chưa có lời đáp.
Vùng đất Trám do cụ Ngô Quang Điện về khai phá. Địa phương từng ghi danh một thần đồng không học hành mà lại thành tài, đỗ tiến sĩ thời Lê. Đó là Nghè Giáp Nguyễn Quang Thành.
Ba mươi năm "cầm vía" lễ Mật, cụ Thơ khẳng định sự thật chắc như đinh đóng cột rằng: "Nếu năm nào nõ - nường đâm trúng nhau thì dân làng đều làm ăn phát đạt, mọi việc thuận hòa. Năm nào đâm chệch thì rất khó làm ăn, thất bát là chuyện khó tránh khỏi".
Việc này đã được chứng minh trong suốt những năm qua ở vùng đất "ngưu miên". Và ngay ở điếm Trò, người làng thi thoảng còn thấy đêm trăng suông có ba con vịt vàng, trong đó có một con vịt què đi trước sân đình. Ai cũng hò nhau đuổi con vịt què, nhưng vịt chui vào đình rồi biến mất.
Những chuyện liêu trai chí dị ở mảnh đất này thì nhiều vô kể. Cụ Thơ không dám kể vì phần nào mang tính dị đoan. Cụ bảo, những chuyện ấy không quan trọng nữa, vì vừa rồi một số chuyên gia đã về làng thu thập tư liệu, đệ trình Unesco công nhận lễ hội "linh tinh tình phộc" độc nhất vô nhị là văn hóa phi vật thể của nhân loại.
"Lễ Mật ở Tứ Xã là một điển hình của tín ngưỡng phồn thực. Tôi đã tìm hiểu về lễ hội "linh tinh tình phộc" cũng như tất cả các lễ hội thuộc tín ngưỡng phồn thực khác của thế giới và đưa ra so sánh. Từ lịch sử, sự độc đáo, ý nghĩa văn hóa tâm linh đến nghi thức thì ở điếm Trò xứng đáng ở ngôi vị độc tôn, không đâu có được".
Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Khắc Xương

Ảnh “độc” về con lai Việt – Mỹ sau chiến tranh VN

(Kiến Thức) - Cuộc sống của những đứa trẻ con lai mẹ Việt - bố Mỹ đã được nhiếp ảnh gia Philip Jones Griffiths lột tả chân thực qua những bức ảnh chụp năm 1985.

Trong chiến tranh Việt Nam, nhiều quân nhân, nhân viên phục vụ trong quân đội và các cơ quan, tổ chức của Mỹ tại miền Nam Việt Nam đã “kết đôi” với phụ nữ địa phương và sinh ra những em bé con lai Việt – Mỹ. Hầu hết những đứa trẻ đó đã lớn lên trong hoàn cảnh không có cha khi người Mỹ rút khỏi Việt Nam…
 Trong chiến tranh Việt Nam, nhiều quân nhân, nhân viên phục vụ trong quân đội và các cơ quan, tổ chức của Mỹ tại miền Nam Việt Nam đã “kết đôi” với phụ nữ địa phương và sinh ra những em bé con lai Việt – Mỹ. Hầu hết những đứa trẻ đó đã lớn lên trong hoàn cảnh không có cha khi người Mỹ rút khỏi Việt Nam…

Tuyết Mai là cô con gái 13 tuổi của bà Nguyễn Thị Ba. Em sinh ra ở Nha Trang, nhưng hiện sống ở Vũng Tàu cùng gia đình. Cùng đứa em gái tên là Anh mới 5 tuổi, Mai đi bán đậu phộng trên bãi biển cho du khách. Khu vực em bán hàng là nơi tập trung du khách Nga và Đông Âu, và dung mạo “lai Tây” giúp em thu hút sự chú ý hơn. Mai không biết gì về cha mình. Sau khi bức ảnh này được đăng trên tạp chí Life năm 1985, nhiều cựu binh Mỹ, và cả vợ của một số cựu binh, đã yêu cầu công bố danh tính của cô bé. Một người đã thu xếp để đưa Mai sang Mỹ, dù tuyên bố về việc ông là cha đẻ của Mai bị nghi ngờ.
 Tuyết Mai là cô con gái 13 tuổi của bà Nguyễn Thị Ba. Em sinh ra ở Nha Trang, nhưng hiện sống ở Vũng Tàu cùng gia đình. Cùng đứa em gái tên là Anh mới 5 tuổi, Mai đi bán đậu phộng trên bãi biển cho du khách. Khu vực em bán hàng là nơi tập trung du khách Nga và Đông Âu, và dung mạo “lai Tây” giúp em thu hút sự chú ý hơn. Mai không biết gì về cha mình. Sau khi bức ảnh này được đăng trên tạp chí Life năm 1985, nhiều cựu binh Mỹ, và cả vợ của một số cựu binh, đã yêu cầu công bố danh tính của cô bé. Một người đã thu xếp để đưa Mai sang Mỹ, dù tuyên bố về việc ông là cha đẻ của Mai bị nghi ngờ.

Hai em Nguyễn Thị Xuân Trang và Nguyễn Anh Tuấn là con của bà Nguyễn Thị Hợp và ông Robert Z. Lewis, người đến từ Nam Carolina, từng phục vụ trong đơn vị không quân Mỹ đóng tại Cần Thơ. Bà Hợp đã sống cùng tình nhân trong vài năm, dù biết rằng ông đã có vợ và hai con bên Mỹ. Robert đã không liên lạc lại, dù từng hứa hẹn đưa bà sang Mỹ sinh sống. Cho tới thời điểm năm 1985, bà Hợp và hai con sống tại TP HCM tại một căn nhà tạm bợ.
 Hai em Nguyễn Thị Xuân Trang và Nguyễn Anh Tuấn là con của bà Nguyễn Thị Hợp và ông Robert Z. Lewis, người đến từ Nam Carolina, từng phục vụ trong đơn vị không quân Mỹ đóng tại Cần Thơ. Bà Hợp đã sống cùng tình nhân trong vài năm, dù biết rằng ông đã có vợ và hai con bên Mỹ. Robert đã không liên lạc lại, dù từng hứa hẹn đưa bà sang Mỹ sinh sống. Cho tới thời điểm năm 1985, bà Hợp và hai con sống tại TP HCM tại một căn nhà tạm bợ.

Cu Tèo sống với bố mẹ nuôi của mình là ông Trần Văn Bảo và bà Trần Thị Hằng trên mảnh đất nhỏ cách phía Bắc của Bến Tre khoảng 10 km. Em đã bỏ học để làm ruộng như mọi người nông dân khác trong vùng vì thường bị bẹn bè trêu chọc về nguồn gốc con lai của mình. Cu Tèo bị mẹ bỏ rơi trong một khu rừng khi di tản khỏi Kontum trong những ngày cuối cùng của cuộc chiến tranh Việt Nam vào năm 1975, khi đó em mới 5 tuổi. Sau chiến tranh, một số người đã ngỏ ý muốn “mua” cậu bé Việt lai Mỹ này, nhưng đều đã bị từ chối. Khi gặp phóng viên, Cu Tèo đã bỏ chạy, và chỉ bình tĩnh lại khi biết rằng người đàn ông lạ mặt đến đây không phải để bắt mình đi.
 Cu Tèo sống với bố mẹ nuôi của mình là ông Trần Văn Bảo và bà Trần Thị Hằng trên mảnh đất nhỏ cách phía Bắc của Bến Tre khoảng 10 km. Em đã bỏ học để làm ruộng như mọi người nông dân khác trong vùng vì thường bị bẹn bè trêu chọc về nguồn gốc con lai của mình. Cu Tèo bị mẹ bỏ rơi trong một khu rừng khi di tản khỏi Kontum trong những ngày cuối cùng của cuộc chiến tranh Việt Nam vào năm 1975, khi đó em mới 5 tuổi. Sau chiến tranh, một số người đã ngỏ ý muốn “mua” cậu bé Việt lai Mỹ này, nhưng đều đã bị từ chối. Khi gặp phóng viên, Cu Tèo đã bỏ chạy, và chỉ bình tĩnh lại khi biết rằng người đàn ông lạ mặt đến đây không phải để bắt mình đi.

Em Lê Thị Liên sống với mẹ nuôi của mình là bà Trần Thị Sinh trong một cửa hàng văn phòng phẩm ở Chợ Lớn sau khi mẹ đẻ qua đời khi mới 3 tháng tuổi. Cha của Liên là một kĩ sư Mỹ làm việc ở Sài Gòn rồi về nước năm 1970. Khi nghe tin mẹ Liên mất, ông đã hỗ trợ tài chính để nuôi Liên. Nhưng sau đó ít lâu, bà Sinh đã nhận được một bức thư từ vợ của người kĩ sư Mỹ, viết rằng: “Đừng bao giờ cố gắng để liên lạc với chồng tôi nữa”. Hiện Liên học ở ngôi trường đối diện với cửa hàng của mình. Em tỏ ra có năng khiếu ở môn điền kinh, thể dục dụng cụ và đã giành giải nhất nội dung chạy cự li ngắn trong một cuộc thi.
 Em Lê Thị Liên sống với mẹ nuôi của mình là bà Trần Thị Sinh trong một cửa hàng văn phòng phẩm ở Chợ Lớn sau khi mẹ đẻ qua đời khi mới 3 tháng tuổi. Cha của Liên là một kĩ sư Mỹ làm việc ở Sài Gòn rồi về nước năm 1970. Khi nghe tin mẹ Liên mất, ông đã hỗ trợ tài chính để nuôi Liên. Nhưng sau đó ít lâu, bà Sinh đã nhận được một bức thư từ vợ của người kĩ sư Mỹ, viết rằng: “Đừng bao giờ cố gắng để liên lạc với chồng tôi nữa”. Hiện Liên học ở ngôi trường đối diện với cửa hàng của mình. Em tỏ ra có năng khiếu ở môn điền kinh, thể dục dụng cụ và đã giành giải nhất nội dung chạy cự li ngắn trong một cuộc thi.

Lê Thị Út, 13 tuổi, là con gái của bà Lê Thị Mai với một lính Mỹ da đen. Ngoài Út, bà Mai còn có nhiều đứa con khác với một người đàn ông Việt Nam. Lê Thị Út hiện theo học ở trường tiểu học mang tên Vĩnh Phú ở tỉnh Bến Tre, nơi em được làm lớp trưởng. Em biết rất ít về người cha của mình – người không có tên trong hồ sơ nhập học – ngoại trừ việc ông đóng quân ở Bến Tre thời gian chiến tranh. Út quả quyết rằng mình muốn được ở lại Việt Nam, thay vì lựa chọn sang Mỹ như nhiều trường hợp con lai khác.
 Lê Thị Út, 13 tuổi, là con gái của bà Lê Thị Mai với một lính Mỹ da đen. Ngoài Út, bà Mai còn có nhiều đứa con khác với một người đàn ông Việt Nam. Lê Thị Út hiện theo học ở trường tiểu học mang tên Vĩnh Phú ở tỉnh Bến Tre, nơi em được làm lớp trưởng. Em biết rất ít về người cha của mình – người không có tên trong hồ sơ nhập học – ngoại trừ việc ông đóng quân ở Bến Tre thời gian chiến tranh. Út quả quyết rằng mình muốn được ở lại Việt Nam, thay vì lựa chọn sang Mỹ như nhiều trường hợp con lai khác.

Loan Anh, một cô bé có cha là người Mỹ ở bên mẹ là bà Hồ Thị Thu. Dù hiện tại sống ở Bến Tre, nhưng Loan Anh được sinh ra ở Đà Lạt, nơi mẹ em làm giáo viên thời kỳ chiến tranh Việt Nam. Hiện giờ bà Thu làm nghề thợ may, và bà đã dạy nghề này cho con gái mình. Ngoài việc học nghề, Loan Anh đang bận rộn học tiếng Anh để chờ cơ hội sang Mỹ sinh sống.
  Loan Anh, một cô bé có cha là người Mỹ ở bên mẹ là bà Hồ Thị Thu. Dù hiện tại sống ở Bến Tre, nhưng Loan Anh được sinh ra ở Đà Lạt, nơi mẹ em làm giáo viên thời kỳ chiến tranh Việt Nam. Hiện giờ bà Thu làm nghề thợ may, và bà đã dạy nghề này cho con gái mình. Ngoài việc học nghề, Loan Anh đang bận rộn học tiếng Anh để chờ cơ hội sang Mỹ sinh sống.  

Vương Thị Mỹ Linh và mẹ cô bé là bà Vương Thị Mai Phương, người từng làm nhân viên trong câu lạc bộ của USAID (Cơ quan phát triển quốc tế Mỹ) trên đường Trần Quý Cáp ở Sài Gòn. Cha của Mỹ Linh là Robert C. Turner, một cựu nhân viên Đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn. Ông đã rời khỏi Việt Nam năm 1973.
Vương Thị Mỹ Linh và mẹ cô bé là bà Vương Thị Mai Phương, người từng làm nhân viên trong câu lạc bộ của USAID (Cơ quan phát triển quốc tế Mỹ) trên đường Trần Quý Cáp ở Sài Gòn. Cha của Mỹ Linh là Robert C. Turner, một cựu nhân viên Đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn. Ông đã rời khỏi Việt Nam năm 1973.

Vuong Tu Than (?) là con trai của bà Vương Thị Phụng Mai, trước kia làm thư ký trong văn phòng của Công ty Kỹ sư Thái Bình Dương ở Sài Gòn. Cha của em là Jerry E. Martin, đến từ thành phố Dallas, Texas, đã rời khỏi Việt Nam vào năm 1973. Bà Mai sống cùng con trai trong căn nhà do ông nội - một người giỏi tiếng Pháp và từng làm việc trong thư viện Đại sứ quán Pháp thời kỳ chiến tranh - để lại ở trung tâm TP HCM.
 Vuong Tu Than (?) là con trai của bà Vương Thị Phụng Mai, trước kia làm thư ký trong văn phòng của Công ty Kỹ sư Thái Bình Dương ở Sài Gòn. Cha của em là Jerry E. Martin, đến từ thành phố Dallas, Texas, đã rời khỏi Việt Nam vào năm 1973. Bà Mai sống cùng con trai trong căn nhà do ông nội - một người giỏi tiếng Pháp và từng làm việc trong thư viện Đại sứ quán Pháp thời kỳ chiến tranh - để lại ở trung tâm TP HCM.

Phong tục Tết xưa của người Việt qua tranh dân gian

Viết câu đối - một phong tục rất quen thuộc trong ngày Tết truyền thống của người Việt Nam để cầu an, cầu tài lộc cho năm mới.
 Viết câu đối - một phong tục rất quen thuộc trong ngày Tết truyền thống của người Việt Nam để cầu an, cầu tài lộc cho năm mới.

Lau đồ thờ đón Tết.
 Lau đồ thờ đón Tết.

Trong gia đình người Việt thường có một bàn thờ tổ tiên, ông bà.
Trong gia đình người Việt thường có một bàn thờ tổ tiên, ông bà.

Giã giò. Giò dường như là món không thể thiếu với người Việt dịp Tết.
 Giã giò. Giò dường như là món không thể thiếu với người Việt dịp Tết.

Bưng cá chép cúng ông Táo vào ngày 23 tháng Chạp hàng năm.
 Bưng cá chép cúng ông Táo vào ngày 23 tháng Chạp hàng năm.

Bàn thờ ông Táo.
 Bàn thờ ông Táo.

Súc sắc súc sẻ là một tục lệ rất phổ biến ở thôn quê ta ngày xưa. Vào những ngày đầu năm, từng đoàn trẻ em nghèo kéo nhau đi đến các nhà giàu, bỏ những đồng tiền trong ống tre và lắc lên kêu “súc sắc súc sẻ” để chúc mừng và để xin tiền.
 Súc sắc súc sẻ là một tục lệ rất phổ biến ở thôn quê ta ngày xưa. Vào những ngày đầu năm, từng đoàn trẻ em nghèo kéo nhau đi đến các nhà giàu, bỏ những đồng tiền trong ống tre và lắc lên kêu “súc sắc súc sẻ” để chúc mừng và để xin tiền.

Cúng Giao thừa vào đêm 30 còn gọi là đêm Trừ Tịch, thường bắt đầu vào lúc cuối giờ thứ 24 của ngày 30 tức là 12 giờ đêm, rạng sáng ngày mùng một. Tết bắt đầu từ giờ này, gọi là giờ “tống cựu nghênh tân”.
 Cúng Giao thừa vào đêm 30 còn gọi là đêm Trừ Tịch, thường bắt đầu vào lúc cuối giờ thứ 24 của ngày 30 tức là 12 giờ đêm, rạng sáng ngày mùng một. Tết bắt đầu từ giờ này, gọi là giờ “tống cựu nghênh tân”.

Đốt pháo là một phong tục truyền thống lâu đời của dân tộc Việt Nam và một số dân tộc châu Á. Trước đây, người dân thường đốt pháo đêm Giao thừa với ý nghĩa xua đuổi tà ma, xua đuổi những điều xui xẻo, đưa tiễn những cái cũ để đón những điều mới, may mắn, tốt đẹp.
  Đốt pháo là một phong tục truyền thống lâu đời của dân tộc Việt Nam và một số dân tộc châu Á. Trước đây, người dân thường đốt pháo đêm Giao thừa với ý nghĩa xua đuổi tà ma, xua đuổi những điều xui xẻo, đưa tiễn những cái cũ để đón những điều mới, may mắn, tốt đẹp.


Dựng nêu, đốt pháo. Cây nêu là cây tre, trên buộc cái giỏ bằng tre, trong giỏ đựng trầu cau vôi, ở bên giỏ có treo giấy vàng bạc... có ý nghĩa trừ tà, xua đuổi ma quỷ.
 Dựng nêu, đốt pháo. Cây nêu là cây tre, trên buộc cái giỏ bằng tre, trong giỏ đựng trầu cau vôi, ở bên giỏ có treo giấy vàng bạc... có ý nghĩa trừ tà, xua đuổi ma quỷ.

Du xuân nghe hát ả đào đầu năm mới.
 Du xuân nghe hát ả đào đầu năm mới.

Lần giở bí ẩn “nước thăng quan” ở ngã ba Bạch Hạc

(Kiến Thức) - Chẳng biết có tự bao giờ, nhưng năm nào cũng vậy, khi tiết xuân vừa chớm nở thì người dân tứ xứ kéo về ngã ba Bạch Hạc (Việt Trì, Phú Thọ) để lấy nước cầu may.

Chẳng biết dòng nước ô nhiễm ấy có mang đến vận may cho người cầu tin hay không. Nhưng chuyện phong thủy khí tụ ở ngã ba Bạch Hạc thì rõ rành từ thời Hùng Vương.

"Anh muốn đến ngã ba Bạch Hạc thì đừng đến chỗ mà người ta chỉ lối bây giờ. Chỗ ấy là sai. Ngã ba Bạch Hạc làm gì có doi đất nào nổi lên. Chỗ mới bây giờ là do đất cát bồi từ khi ngăn đập Sơn La. Anh cứ nhắm thẳng đền Tam Giang hướng khoảng trăm mét chỗ nước cuộn mới là ngã ba Bạch Hạc" - Lời của nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Khắc Xương dặn chúng tôi trước lúc tìm đến ngã ba thiêng liêng cổ kính nhất nước Việt. 

Ngã ba trời đất