Khai quật di tích Óc Eo mang bí ẩn nghìn năm

Bộ Văn hóa, Thể thao & Du lịch cho biết, Bộ đã có công văn cấp phép khai quật khảo cổ các địa điểm thuộc khu Di sản văn hóa Óc Eo - Ba Thê.

Di tích khảo cổ và kiến trúc nghệ thuật Óc Eo - Ba Thê nằm trên địa bàn thị trấn Óc Eo, thuộc huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang, có tổng diện tích quy hoạch bảo tồn khoảng 433,1ha. Di tích này thuộc về văn hóa Óc Eo, một trong những nền văn hóa cổ của Việt Nam, tồn tại từ khoảng thế kỷ 1 đến thế kỷ 7 sau Công nguyên ở khu vực đồng bằng Nam Bộ.

Nền văn hóa có tầm quan trọng đặc biệt của Đông Nam Á cổ

Văn hóa Óc Eo gắn liền với sự tồn tại và phát triển của vương quốc Phù Nam cổ đại, được xem là trung tâm thương mại và văn hóa phát triển rực rỡ trong khu vực Đông Nam Á cổ đại. Tên gọi "Óc Eo" xuất phát từ tên một địa điểm thuộc huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang, nơi các di tích đầu tiên được phát hiện vào những năm 1940 bởi nhà khảo cổ học người Pháp Louis Malleret.

Nền văn hóa Óc Eo mang đậm dấu ấn của sự giao lưu quốc tế sôi động. Qua các di chỉ khai quật được, người ta tìm thấy nhiều hiện vật phong phú như đồ gốm, tượng đá, tượng đồng, trang sức bằng vàng và đá quý, tiền cổ có nguồn gốc từ Ấn Độ, Trung Quốc, La Mã và các khu vực khác. Điều này cho thấy Óc Eo từng là một điểm nút quan trọng trên con đường thương mại hàng hải nối liền Ấn Độ Dương với Thái Bình Dương. Các kênh rạch, đường thủy cổ trong vùng còn lưu lại dấu tích của một hệ thống giao thông thủy vô cùng phát triển, chứng minh khả năng tổ chức và quy hoạch đô thị sớm của cư dân Óc Eo.

01-9478.jpg
Một dấu tích kiến trúc tại Di tích khảo cổ và kiến trúc nghệ thuật Óc Eo - Ba Thê. Ảnh: Báo An Giang.

Một trong những đặc điểm nổi bật nhất của văn hóa Óc Eo là ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa Ấn Độ, thể hiện qua các công trình kiến trúc tôn giáo, tượng thần Hindu và Phật giáo, cùng hệ thống ký tự cổ Brahmi. Tuy nhiên, cư dân Óc Eo cũng phát triển bản sắc riêng, thông qua việc bản địa hóa các yếu tố ngoại lai để tạo nên một nền văn hóa độc đáo, hài hòa giữa quốc tế và bản địa. Nhiều tượng thần Vishnu, Shiva, Bà-la-môn giáo và Phật giáo được chế tác với kỹ thuật tinh xảo, cho thấy trình độ nghệ thuật và tín ngưỡng phong phú của cư dân thời kỳ này.

Văn hóa Óc Eo còn đóng vai trò quan trọng trong việc định hình bản đồ lịch sử – văn hóa Đông Nam Á cổ. Nó cho thấy từ rất sớm, khu vực Nam Bộ Việt Nam không chỉ là một vùng đất trù phú về nông nghiệp mà còn là một trung tâm giao thương quốc tế, có mối liên kết chặt chẽ với các nền văn minh lớn. Sự phát triển của Óc Eo không chỉ khẳng định trình độ kỹ thuật – nghệ thuật – tôn giáo của cư dân cổ mà còn đặt nền móng cho sự hình thành và phát triển của các quốc gia cổ đại trong khu vực, trong đó có vương quốc Chân Lạp sau này.

Loại hình di tích đặc trưng

Theo Hồ sơ xếp hạng di tích, tư liệu Cục Di sản văn hóa, Di tích khảo cổ và kiến trúc nghệ thuật Óc Eo - Ba Thê gồm các loại hình tiêu biểu sau:

Di tích kiến trúc: Thường có niên đại kéo dài từ giai đoạn tiền Óc Eo đến giai đoạn hậu kỳ Óc Eo, phân bố ở quanh sườn và chân núi Ba Thê, Linh Sơn Nam, Linh Sơn Bắc, gò Danh Sang...

Linh Sơn tự (chùa Linh Sơn) được xây dựng bên trên nền móng của một công trình kiến trúc cổ của văn hóa Óc Eo. Trong chùa hiện đang lưu giữ tượng thần Vishnu, hai bia đá và nhiều hiện vật có giá trị. Chùa Linh Sơn đã được Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia năm 1988.

Tại gò Út Trạnh, các nhà khảo cổ đã phát hiện một tổng thể kiến trúc gạch, gồm ba hạng mục chính, được xây thẳng hàng và cách đều nhau, dàn trải theo trục Bắc- Nam, cửa quay hướng Đông... Kiến trúc này nằm trong hệ thống tường bao hình chữ nhật, có diện tích khoảng 500m2. Đây là một loại hình kiến trúc tôn giáo hoàn toàn mới tại khu vực Óc Eo - Ba Thê và miền Tây Nam Bộ, được xây dựng và sử dụng vào thế kỷ VII và thế kỷ VIII - IX sau Công nguyên.

Khi tiến hành khai quật tại Gò Cây Trôm thuộc địa phận ấp Trung Sơn, xã Vọng Thê, các nhà khảo cổ đã phát hiện được dấu tích một công trình kiến trúc cổ, xây bằng gạch và nhiều hiện vật gắn với hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng (con dấu, bùa đeo). Ngoài ra, các nhà khảo cổ còn phát hiện được 01 linga bằng đá, cao 1,7m, niên đại thế kỷ V - VII.

Di chỉ cư trú: phân bố trên địa bàn rộng, tiêu biểu như ở các địa điểm: Ba Thê, gò Tư Trâm, gò Cây Me 2, gò Cây Da... Các di chỉ này đều có tầng văn hóa dày trung bình từ 1m trở lên, nằm dưới lớp đất màu xám đen chứa mảnh gốm, gạch vỡ, xương động vật, công cụ bằng gỗ, bát gáo dừa, cọc gỗ, vò gốm thô, chum nhỏ, nồi đáy tròn. Đặc biệt, tại di tích gò Cây Da đã phát hiện dấu vết của kiến trúc nhà sàn (có thể được dựng trên mặt đất hoặc trên mặt nước), với những cọc gỗ tập trung thành nhóm trên cánh đồng, ven chân gò và cả dưới lòng lung...

Di chỉ mộ táng gồm: Mộ vò gốm - phát hiện ở khu vực Linh Sơn Nam, với miệng loe xiên, thành miệng rộng, có nắp đậy, bên trong chứa năm hạt chuỗi bằng vàng, một hạt chuỗi mã não (bị vỡ), niên đại vào khoảng những năm 40 - 70 sau Công nguyên. Mộ huyệt đất - phát hiện ở khu vực gò Tư Trâm có hình chữ nhật, dọc theo hai bờ vách vẫn còn dấu vết của những thân gỗ mục, in dấu tấm đệm đan bằng cỏ lác trải rộng khắp bề mặt; đáy mộ có dấu vết xương cốt bị phân hủy.

Những phát hiện trên đã chỉ ra rằng, ngôi mộ này có cùng niên đại với tầng văn hóa cư trú sớm nhất ở trên gò. Mộ hỏa táng: phát hiện tại các khu vực gò Cây Cóc, gò Ông Côn, gò Đôi, gò A7, thường có hình vuông hoặc hình chữ nhật, được xây bằng gạch, hoặc xếp đá, chính giữa để một lỗ vuông thông suốt, bên dưới lớp cát trắng chứa các lá vàng, chuỗi hạt bằng đá quý...

02-1601.jpg
Tượng thần Surya Ba Thê, một hiện vật tiêu biểu của văn hóa Óc Eo. Ảnh: Quốc Lê.

Di chỉ xưởng: Những chuỗi hạt thành phẩm và bán thành phẩm, đá thủy tinh với đủ loại hình, màu sắc, chất liệu và kích thước khác nhau phát hiện tại gò Óc Eo chứng tỏ nơi đây đã từng tồn tại những xưởng thủ công có quy mô lớn.

Hệ thống giao thông thủy: lung Giếng Đá còn có tên gọi khác là lung Lớn (Antun Bhtak Kay), dài 30km, chạy theo hướng Bắc - Đông Bắc, Nam - Tây Nam, từ Tráp Đá qua vịnh Thái Lan, đến Nền Chùa (Tà Kèv). Trong lòng lung đã phát hiện được nhiều hiện vật khảo cổ, như cọc gỗ, gốm cổ, vật dụng, đồ trang sức bằng đồng và gỗ…

Baray (hồ chứa nước): Nằm trong khu đất nhà bà Út Nguyên, thuộc ấp Trung Sơn, thị trấn Óc Eo. Hồ có hình vuông, bao quanh bởi bờ kè, hai bên hồ nước có hai dòng suối chảy vào.

Vì những giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học đặc biệt của di tích, ngày 27/9/2012, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định xếp hạng Di tích khảo cổ và kiến trúc nghệ thuật Óc Eo - Ba Thê là Di tích quốc gia đặc biệt.

Bộ Văn hóa, Thể thao & Du lịch cho phép Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia TP HCM) phối hợp với Ban Quản lý Di tích văn hóa Óc Eo tỉnh An Giang khai quật khảo cổ tại địa điểm gò Tư Trâm và địa điểm Hào Thành 1, Hào Thành 2, Hào Thành 3 thuộc khóm Trung Sơn, thị trấn Óc Eo (huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang).

Thời gian khai quật diễn ra từ ngày 18/6 đến ngày 10/8 trên tổng diện tích khai quật 300m2, gồm 4 hố, dưới sự chủ trì của bà Võ Thị Ánh Tuyết - Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn.

Di tích nổi tiếng Tiền Giang, xây bằng loại gạch cổ hình vuông

Gò Tân Hiệp, tọa lạc tại ấp Cá, thị trấn Tân Hiệp, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang) là gò nhân tạo thời kỳ Phù Nam thuộc dòng văn hóa Óc Eo. Gò được bó nền (bọc nền) bằng gạch có hình vuông với chiều cao khoảng 4 m.

Theo “Địa chí Tiền Giang”, di tích Gò Tân Hiệp (tọa lạc tại ấp Cá, thị trấn Tân Hiệp, nay thuộc khu làm việc của Huyện ủy Châu Thành, tỉnh Tiền Giang) diện tích phần gò 4.157 m2, nằm trong thửa đất 9.895 m2, đỉnh gò cao hơn so mặt đất khoảng 4,5 m.

Đây là di tích kiến trúc có quy mô được xem là lớn nhất ở Tiền Giang.

Khám phá tòa thành cổ sắp được khai quật ở Tuyên Quang

Thành Nhà Bầu – di tích cổ nghìn năm tại Tuyên Quang sắp bước vào cuộc khai quật khảo cổ lần hai, hứa hẹn hé lộ nhiều bí ẩn lịch sử chưa từng được biết đến.

Thành Nhà Bầu ở Tuyên Quang là công trình phòng thủ quân sự do hai anh em họ Vũ là Khánh Bá Hầu Gia Quốc Công Vũ Văn Uyên và An Tây Vương Gia Quốc Công Vũ Văn Mật (từng được Vua Lê phong là Tống binh trấn thủ Tuyên Quang) tổ chức xây đắp để phù nhà Lê, chống nhà Mạc. Công trình được xây dựng tại xã Thúc Thủy, huyện Quả Sùng hay Cảo Sùng (nay thuộc xóm Tân Thành, xã An Khang, thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang).

Tòa thành gắn với một giai đoạn lịch sử đặc biệt của Tuyên Quang

“Công viên Di sản các nhà khoa học là của nhân dân”

"Tài sản vô giá này của nhân dân”, GS Nguyễn Anh Trí chia sẻ về lý do tặng Công viên Di sản các nhà khoa học Việt Nam cho Nhà nước.

Mới đây, GS.TS, Anh hùng Lao động Nguyễn Anh Trí, Đại biểu Quốc hội đoàn Hà Nội chia sẻ mong muốn tặng lại Công viên Di sản các nhà khoa học Việt Nam (Meddom Park) cho Nhà nước. Công viên này có quy mô rộng hàng chục hecta, lưu trữ cả triệu tài liệu cùng nhiều công trình giá trị, ước tính khoảng 500 tỉ đồng.

gs-nguyen-anh-tri.jpg
GS.TS, Anh hùng Lao động Nguyễn Anh Trí. Ảnh: NVCC.