Đổi mới công tác Tuyên giáo và Dân vận đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước thời kỳ mới

Chiều 11/6, tại Hà Nội, Tổng Bí thư Tô Lâm đã chủ trì buổi làm việc với Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương về tình hình thực hiện nhiệm vụ sau khi hợp nhất đến nay.

Tham dự buổi làm việc có các đồng chí: Trần Cẩm Tú, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư; Nguyễn Duy Ngọc, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương; Nguyễn Trọng Nghĩa, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương; Lê Hoài Trung, Bí thư Trung ương Đảng, Chánh Văn phòng Trung ương Đảng; các đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng, lãnh đạo các ban, bộ, ngành Trung ương, lãnh đạo Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương.

tuyen-giao.jpg
Tổng Bí thư Tô Lâm phát biểu chỉ đạo buổi làm việc. Ảnh: Phương Hoa/TTXVN

Động lực khơi dậy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc

Từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII, nhất là từ sau khi hợp nhất, Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương đã cơ bản hoàn thành tốt các nhiệm vụ được Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư giao, kết quả thành công nhất được thể hiện rõ nét trên mặt trận tư tưởng, thông tin tuyên truyền.

Từ sau khi hợp nhất đến nay, tập thể lãnh đạo Ban, đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, người lao động đã đoàn kết, đồng lòng, sớm ổn định tư tưởng, nỗ lực tập trung triển khai các nhiệm vụ trọng tâm. Ban đã quyết liệt thực hiện sắp xếp, tinh gọn bộ máy; đã giảm đầu mối cấp vụ từ 31 xuống còn 17 vụ (đạt 45,2%); giảm đầu mối cấp phòng từ 33 xuống còn 7 phòng (đạt 78,8%); sớm ban hành Quy chế làm việc; rà soát, khắc phục sự chồng chéo trong chức năng, nhiệm vụ các đơn vị trực thuộc và kịp thời giải quyết chế độ, chính sách đối với cán bộ.

Ban cũng đã chủ động phối hợp với các địa phương triển khai sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của cơ quan tuyên giáo, dân vận, báo chí địa phương; kịp thời ban hành hướng dẫn, văn bản chỉ đạo, đôn đốc các bộ, ngành, địa phương thực hiện sắp xếp các cơ quan báo chí theo đúng tinh thần chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư; tích cực tham gia thẩm định, góp ý các đề án sắp xếp, tổ chức lại đơn vị hành chính các cấp, xây dựng mô hình chính quyền địa phương 2 cấp, sắp xếp các tổ chức chính trị - xã hội, hội quần chúng.

Bên cạnh đó, Ban tập trung triển khai 17 đề án về công tác tuyên giáo, dân vận trình Bộ Chính trị, Ban Bí thư năm 2025. Từ đầu năm 2025 đến nay, Ban đã tham mưu và tổ chức 2 Hội nghị toàn quốc quán triệt nghị quyết với hình thức học tập ngày càng được đổi mới, thiết thực; chủ động nắm bắt tình hình nhân dân, dư luận xã hội và đấu tranh, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; tổ chức hơn 30 hội thảo, tọa đàm và nhiều công trình nghiên cứu khoa học cấp quốc gia để đẩy mạnh công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch phù hợp với tình hình thực tiễn. Công tác học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh tiếp tục được đẩy mạnh. Ban đã tham mưu, phối hợp tổ chức thành công các sự kiện, chương trình, hoạt động kỷ niệm các ngày lễ lớn của Đảng, đất nước.

Về thực hiện nhiệm vụ tổ chức phục vụ Đại hội XIV của Đảng, Ban được giao triển khai 21 nhiệm vụ. Đến nay đã tham mưu thành lập Trung tâm Báo chí Đại hội XIV của Đảng, cử Người Phát ngôn và ban hành Quy chế hoạt động của Trung tâm; thành lập Ban Chỉ đạo nắm tình hình nhân dân và dư luận xã hội, tổng hợp ý kiến góp ý của nhân dân vào dự thảo văn kiện Đại hội XIV của Đảng; chỉ đạo báo chí mở các chuyên trang, chuyên mục, tổ chức tọa đàm… về công tác tổ chức đại hội đảng các cấp; tiếp tục đẩy mạnh định hướng tuyên truyền về đại hội đảng bộ các cấp và Đại hội XIV của Đảng.

Từ nay đến Đại hội XIV của Đảng, toàn Ban tiếp tục nỗ lực, tập trung thực hiện các đề án, nhiệm vụ Bộ Chính trị, Ban Bí thư giao đảm bảo chất lượng, tiến độ; đẩy mạnh tuyên truyền tạo đồng thuận xã hội và khơi dậy khát vọng phát triển đất nước; cổ vũ toàn Đảng, toàn dân, toàn quân thực hiện thắng lợi các mục tiêu Đại hội XIII của Đảng cũng như những mục tiêu phát triển đất nước trong kỷ nguyên; chú trọng tuyên truyền các nghị quyết trụ cột (57, 59, 66, 68) và mục tiêu tăng trưởng kinh tế của đất nước.

Phát biểu kết luận buổi làm việc, Tổng Bí thư Tô Lâm đánh giá cao những kết quả công tác Tuyên giáo và Dân vận từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng đến nay, trong đó có những kết quả công tác nổi bật của Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương sau khi hợp nhất.

tuyen-giao-2.jpg
Tổng Bí thư Tô Lâm phát biểu chỉ đạo. Ảnh: Thống Nhất/TTXVN

Nhấn mạnh công tác Tuyên giáo và Dân vận ngày càng có ý nghĩa chiến lược, là cầu nối không thể thiếu giữa Đảng và nhân dân, là động lực khơi dậy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, Tổng Bí thư khẳng định, chủ trương hợp nhất Ban Tuyên giáo Trung ương và Ban Dân vận Trung ương thành Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương, không chỉ là sự đổi mới về tổ chức mà còn tạo nên sức mạnh tổng hợp, kết hợp chặt chẽ giữa tuyên truyền và vận động, giữa tư tưởng và hành động, để từ đó tạo sự thống nhất ý chí và hành động trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta.

Để tiếp tục phát huy vai trò công tác Tuyên giáo “đi trước mở đường, đi cùng - thực hiện” và công tác Dân vận là “trách nhiệm của hệ thống chính trị”, Tổng Bí thư đề nghị Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương, toàn ngành tuyên giáo, dân vận cả nước tập trung thực hiện các nhiệm vụ chiến lược, xuyên suốt. Đó là tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả 10 nhiệm vụ về công tác tuyên giáo và dân vận, đặc biệt quan tâm nghiên cứu đổi mới tư duy, nhận thức, biện pháp, phương pháp công tác để thực hiện “bước chuyển mình chiến lược” từ truyền thống sang hiện đại, đáp ứng được yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương nghiên cứu và sớm đề xuất những vấn đề mang tính tổng thể với những lộ trình, bước đi, phù hợp để đổi mới công tác Tuyên giáo và Dân vận đáp ứng ngay yêu cầu phát triển của đất nước trong thời kỳ mới.

Tổng Bí thư nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng đội ngũ cán bộ tuyên giáo, dân vận thật sự là những chiến sĩ kiên trung trên mặt trận tư tưởng, vận động quần chúng của Đảng. Đội ngũ cán bộ tuyên giáo và dân vận phải đoàn kết, sáng tạo, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, có bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức trong sáng, luôn hướng về cơ sở, bám sát thực tiễn và gắn bó mật thiết với nhân dân, làm tốt công tác nêu gương, luôn trau dồi kỹ năng tư duy, kỹ năng nói, viết, khả năng tiếp cận và sử dụng công nghệ, luôn lấy tư tưởng Hồ Chí Minh, những giá trị cốt lõi của Đảng làm cơ sở để tuyên truyền, thuyết phục, vận động quần chúng nhân dân tin tưởng, đồng thuận và chấp hành những chủ trương, quyết sách của Đảng và sự lãnh đạo, điều hành của cơ quan nhà nước các cấp.

Kết hợp hài hòa, biện chứng công tác Tuyên giáo và Dân vận trong mô hình tổ chức mới

Về những nhiệm vụ trọng tâm từ nay đến Đại hội XIV của Đảng, Tổng Bí thư yêu cầu rà soát lại các chủ trương về công tác Tuyên giáo và Dân vận đã đề ra tại Đại hội XIII của Đảng để tập trung hoàn thành; tiếp tục rà soát, bổ sung, hoàn thiện các quy chế, quy trình công tác, bảo đảm kết hợp hài hòa, biện chứng giữa công tác Tuyên giáo và công tác Dân vận trong mô hình tổ chức mới. Rà soát, bổ sung, hoàn thiện các quy chế, cơ chế phối hợp giữa Ban Tuyên giáo Trung ương và các Ban tham mưu chiến lược của Đảng bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất, “đúng vai, thuộc bài” của từng cơ quan và có phối hợp chặt chẽ trong thực hiện nhiệm vụ liên quan đến tuyên giáo và dân vận.

Tổng Bí thư đề nghị tập trung cao độ thực hiện tốt các nhiệm vụ tổ chức Đại hội Đảng các cấp và Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIV. Ban Tuyên giáo và Dân vận cần chủ động theo dõi, nắm bắt tình hình nhân dân, dư luận xã hội liên quan đến Đại hội, tổ chức hiệu quả việc lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến nhân dân góp ý vào các dự thảo văn kiện Đại hội XIV của Đảng; làm tốt công tác chỉ đạo, định hướng thông tin, tuyên truyền về Đại hội Đảng các cấp và Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIV. Cùng với đó, phải tăng cường hơn nữa công tác theo dõi, đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đặc biệt là giai đoạn trước, trong và sau Đại hội XIV của Đảng. Mục tiêu là tạo sự thống nhất, đồng thuận cao trong Đảng và toàn xã hội để thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị lớn của đất nước. Tập trung nguồn lực để triển khai Trung tâm báo chí Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng; chuẩn bị rất kỹ nội dung, chương trình, kế hoạch tuyên truyền trước, trong và sau Đại hội; chú ý phục vụ tuyên truyền quốc tế về Đại hội XIV của Đảng.

Tổng Bí thư lưu ý đẩy mạnh tuyên truyền, tạo sự đồng thuận xã hội, khơi dậy và thúc đẩy khát vọng phát triển đất nước của người dân và doanh nghiệp, cả trong và ngoài nước; thỏa mãn khát khao cống hiến của hiền tài, nguyên khí quốc gia trong mọi tầng lớp nhân dân, để làn sóng yêu nước, yêu dân tộc mạnh mẽ, thiết thực, lan tỏa trên phạm vi rộng khắp. Tiếp tục đổi mới cách thức tổ chức quán triệt nghị quyết, giảm hội nghị, tăng tính thực tiễn, ứng dụng công nghệ, chuyển đổi số để đưa chủ trương, đường lối của Đảng thấm sâu vào trái tim, khối óc của mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân...

Tổng Bí thư nhấn mạnh, hệ thống các cơ quan làm công tác Tuyên giáo và Dân vận cần tập trung toàn lực để tuyên truyền, vận động đoàn viên, hội viên và các tầng lớp nhân dân “hiểu đúng, nắm rõ và đồng thuận cao” với các chủ trương, chính sách về tinh gọn, sắp xếp tổ chức bộ máy, sáp nhập đơn vị hành chính, sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 2013 và hoàn thiện thể chế pháp luật...; cần sớm đánh giá hiệu quả, nghiên cứu và chỉ đạo xây dựng các nền tảng truyền thông về Việt Nam tới bạn bè quốc tế.

Tổng Bí thư đề nghị Ban cần phối hợp chặt chẽ với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội để đảm bảo công khai, minh bạch, phát huy quyền làm chủ của nhân dân; tăng cường đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; xây dựng đội ngũ “bút chiến” sắc bén, có bản lĩnh chính trị, am hiểu thực tiễn, tạo ra các chuỗi bài viết có tính chiến đấu, giáo dục và thuyết phục cao... Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương cần tiếp tục tham mưu các chủ trương lớn về văn hóa, văn nghệ, khoa học, giáo dục, y tế,... đảm bảo văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững, sánh vai với các cường quốc trên thế giới.

Nhấn mạnh chúng ta đang đứng trước cơ hội vững bước tiến vào kỷ nguyên mới với khát vọng xây dựng một đất nước Việt Nam giàu mạnh và thịnh vượng, sánh vai các cường quốc năm châu như lời Bác Hồ đã từng mong muốn, Tổng Bí thư chỉ rõ cần có những lực lượng xung kích đi đầu, trong đó có đội ngũ cán bộ của ngành Tuyên giáo và Dân vận - những người đóng vai trò nuôi dưỡng, lan tỏa, truyền cảm hứng về sự đoàn kết, kiên cường, không ngừng theo đuổi các nỗ lực thực hiện khát vọng dân tộc và niềm tin phát triển đất nước.

Toàn văn phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Hội nghị quán triệt nghị quyết của Bộ Chính trị

Ngày 18/5, Tổng Bí thư Tô Lâm chủ trì và có bài phát biểu chỉ đạo quan trọng tại Hội nghị toàn quốc quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết số 66 và Nghị quyết số 68 của Bộ Chính trị.

Báo Tri thức & Cuộc sống trân trọng giới thiệu toàn văn phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Hội nghị toàn quốc quán triệt tinh thần các nghị quyết của Bộ Chính trị.

Thưa các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,

Tổng Bí thư Tô Lâm: Tiếp tục phát triển quan hệ tốt đẹp Việt - Liên bang Nga

Tổng Bí thư Tô Lâm mong rằng các thế hệ trẻ hai nước sẽ tiếp bước các thế hệ cha anh, kế thừa truyền thống hữu nghị và tận dụng tốt những cơ hội, thắp lên tương lai tươi sáng cho quan hệ Việt - Nga.

Trong khuôn khổ chuyến thăm chính Liên bang Nga, sáng 11/5, tại Thủ đô Moscow, Tổng Bí thư Tô Lâm đã có buổi gặp mặt thân mật tri ân với các nhân sĩ, trí thức, chuyên gia Nga từng giúp đỡ Việt Nam.

Tong Bi thu To Lam: Tiep tuc phat trien quan he tot dep Viet - Lien bang Nga

Tổng Bí thư Tô Lâm gặp mặt thân mật tri ân với các nhân sĩ, trí thức, chuyên gia Nga từng giúp đỡ Việt Nam

Bài viết của Tổng Bí thư Tô Lâm: Động lực mới cho phát triển kinh tế

Từ kinh nghiệm phát triển kinh tế tư nhân tại các quốc gia như Nga, Trung Quốc, cùng thực tiễn 40 năm đổi mới ở Việt Nam, Tổng Bí thư Tô Lâm nêu rõ: kinh tế tư nhân ngày càng khẳng định vị trí quan trọng trong nền kinh tế.

Báo Tri thức và Cuộc sống xin trân trọng giới thiệu bài viết của Tổng Bí thư Tô Lâm tựa đề: "Động lực mới cho phát triển kinh tế".

1. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn sáng suốt, đúng đắn của Đảng ta ngay từ khi ra đời và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, là nguyên nhân gốc rễ dẫn đến mọi thắng lợi của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước trước đây cũng như trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Trong đó, chủ nghĩa xã hội mà chúng ta xây dựng, như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh “là làm cho dân giàu, nước mạnh”; với đặc trưng “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”.

Bai viet cua Tong Bi thu To Lam: Dong luc moi cho phat trien kinh te
 Tổng Bí thư Tô Lâm. Ảnh: TTXVN

Học thuyết hình thái kinh tế xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin đã chứng tỏ rằng, hoạt động sản xuất vật chất của con người là cơ sở, nguồn gốc, nguyên nhân quyết định nhất tới sự biến đổi xã hội; sản xuất là hoạt động nền tảng làm phát sinh, phát triển những mối quan hệ xã hội của con người, mang đến sự hợp tác, yếu tố cạnh tranh thúc đẩy sản xuất lên tầm cao mới, đồng thời cũng chính là cơ sở của sự hình thành, biến đổi và phát triển của xã hội loài người. Theo quan niệm của Mác, biến đổi xã hội thực chất và trước hết là sự biến đổi của nền sản xuất vật chất và biến đổi của nền sản xuất vật chất chính là sự biến đổi trung tâm quan trọng nhất quyết định sự biến đổi xã hội. Trong lộ trình biến đổi xã hội, biến đổi về cơ cấu kinh tế kéo theo biến đổi về cơ cấu xã hội và biến đổi hệ thống giá trị, chuẩn mực xã hội. Xuất phát từ  “sự thật hiển nhiên,… trước hết con người cần phải ăn, uống, ở và mặc, nghĩa là phải lao động, trước khi có thể đấu tranh giành quyền thống trị, trước khi có thể hoạt động chính trị, tôn giáo, triết học,…”, chủ nghĩa Mác đã chỉ ra rằng để con người có thể sống, tồn tại, phát triển thì tất yếu con người phải sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội. Đồng thời, "Những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào".

Bên cạnh đó, theo V.I. Lê-nin, năng suất lao động cao phản ánh bản chất ưu việt của chủ nghĩa xã hội so với chủ nghĩa tư bản; là tiêu chuẩn quan trọng nhất, chủ yếu nhất tạo nên thắng lợi của chủ nghĩa xã hội “Xét đến cùng thì năng suất lao động là cái quan trọng nhất, chủ yếu nhất cho thắng lợi của chế độ mới. Chủ nghĩa tư bản đã tạo ra một năng suất lao động chưa từng thấy dưới chế độ nông nô. Chủ nghĩa tư bản có thể bị đánh bại hẳn và sẽ bị đánh bại hẳn vì chủ nghĩa xã hội tạo ra năng suất lao động mới cao hơn nhiều”.

Như vậy, để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội với những đặc trưng mà Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng đã xác định, hoạt động sản xuất vật chất của con người có ý nghĩa quyết định nhất, với năng suất lao động cao là yếu tố then chốt. Thông qua hoạt động sản xuất vật chất để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, tạo ra những biến đổi xã hội tích cực, khắc phục triệt để những hạn chế, bất cập, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; qua đó, hoàn thành thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, chuyển sang giai đoạn cao của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa như Mác đã dự báo trong tác phẩm Phê phán cương lĩnh Gôta “Khi mà cùng với sự phát triển toàn diện của các cá nhân, sức sản xuất của họ cũng ngày càng tăng lên và tất cả các nguồn của cải xã hội đều tuôn ra dồi dào - chỉ khi đó người ta mới có thể vượt hẳn ra khỏi giới hạn chật hẹp của pháp quyền tư sản và xã hội mới có thể ghi trên lá cờ của mình: làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”.

2. Thực tiễn phát triển kinh tế, đặc biệt là kinh tế tư nhân ở Trung Quốc và Nga, cũng như qua 40 năm đổi mới ở Việt Nam đã để lại những bài học hết sức quý báu. Với Nga, ngay cả trong thời kỳ phát triển kinh tế kế hoạch hoá tập trung, Chính sách kinh tế mới phát triển các thành phần kinh tế, trong đó có kinh tế tư nhân, của V. Lênin từ năm 1921 đến năm 1991 đã giúp kinh tế Nga phát triển vượt bậc. Trong thời kỳ này, Nước Nga cùng với nhiều nước kém phát triển khác trong Liên bang Xô viết trở thành cường quốc đạt tới trình độ cao trong nhiều lĩnh vực như năng lượng, công nghiệp, vũ trụ. Với Trung Quốc, bắt đầu từ chính sách “Cải cách và Mở cửa” năm 1978, sửa đổi hiến pháp năm 1988 theo hướng tăng cường bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các doanh nghiệp tư nhân, công nhận kinh tế tư nhân là một phần quan trọng của nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa tại Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ XV năm 1997, cam kết bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của kinh tế cá thể và kinh tế tư doanh, kinh tế tư nhân của TQ đã có bước phát triển bùng nổ, với sự ra đời của nhiều tập đoàn lớn không chỉ thống trị thị trường nội địa mà còn vươn ra thị trường quốc tế, đóng vai trò quan trọng trong các lĩnh vực công nghệ, viễn thông và thương mại điện tử. Hàng loạt doanh nghiệp tư nhân chiếm phần lớn trong các ngành công nghiệp như sản xuất, dịch vụ, đặc biệt là công nghệ cao đã đóng góp hơn 60% GDP, tạo ra 80% việc làm ở thành thị và hơn 70% phát minh, sáng chế trong nền kinh tế Trung Quốc.

Ở Việt Nam, với việc nền kinh tế nhiều thành phần được thừa nhận chính thức trong văn kiện Đại hội VI của Đảng; khẳng định khuyến khích và tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân phát triển ở Đại hội VII và tiếp tục nhấn mạnh ở Đại hội VIII; có bước phát triển tại Đại hội IX khi Đảng ta khẳng định kinh tế tư bản tư nhân là thành phần kinh tế có vị trí quan trọng lâu dài trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, lần đầu tiên ban hành Nghị quyết chuyên đề “Về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích, tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân”; nhấn mạnh vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế và quy định cụ thể vấn đề đảng viên làm kinh tế tư nhân ở Đại hội X; khẳng định mạnh mẽ, dứt khoát về vai trò của kinh tế tư nhân như là một động lực quan trọng của nền kinh tế tại Đại hội XII, XIII, kinh tế tư nhân đã có những bước phát triển khởi sắc. Từ chỗ chỉ tồn tại “thoi thóp”, “cầm chừng” trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, bị phân biệt đối xử không chỉ trong ý thức xã hội mà trong cả cơ chế, chính sách nhà nước, kinh tế tư nhân đã vươn lên mạnh mẽ trong thời kỳ đổi mới, đóng góp ngày càng nhiều cho ngân sách nhà nước, tạo việc làm cho xã hội, phát huy những tiềm năng, lợi thế sẵn có ở mỗi địa phương cũng như trong cả nước, góp phần quan trọng phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, khẳng định vai trò, động lực quan trọng trong hội nhập quốc tế.

Có thể thấy, với tầm nhìn, chính sách đúng đắn, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế tư nhân là sự lựa chọn sống còn để thúc đẩy sản xuất vật chất, tạo ra sự biến đổi xã hội, “sức bật” về trình độ công nghệ, đào tạo nghề, gia tăng khả năng hấp thu vốn, thúc đẩy tăng năng suất lao động, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Để phát triển kinh tế tư nhân, vấn đề quan trọng, cốt lõi nhất là tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với những thay đổi có tính bước ngoặt về tư duy, nhận thức, hành động, tạo thành đặc trưng cơ bản của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng so với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước trước đây.

3. Ngày 04/5/2025, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân, với các mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ, giải pháp đột phá, chưa từng có tiền lệ; định hình quan điểm mới của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng; thúc đẩy phát triển mạnh mẽ kinh tế tư nhân - động lực mới phát triển kinh tế trong thời gian tới. Để thực hiện thắng lợi Nghị quyết số 68, cần tập trung thực hiện một số công tác cấp bách, sau đây:

Thứ nhất, triển khai quyết liệt, hiệu quả các công tác sớm đưa Nghị quyết của Đảng vào thực tiễn cuộc sống. Ngay trong Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khoá XV, Quốc hội sẽ thảo luận và ban hành Nghị quyết về phát triển kinh tế tư nhân với các cơ chế, chính sách ưu đãi cụ thể, khả thi, hiệu quả. Lập Ban Chỉ đạo quốc gia triển khai Nghị quyết 68 do Thủ tướng Chính phủ làm Trưởng ban, định kỳ hằng tháng rà soát, đôn đốc việc thực hiện Nghị quyết của các bộ, ngành, địa phương, tuyệt đối không để xảy ra tình trạng lúng túng, thực hiện theo cách riêng gây mất hiệu lực chính sách Trung ương. Thường xuyên công khai kết quả thực hiện, lấy đây là một trong những tiêu chí đánh giá năng lực, việc thực hiện chức trách nhiệm vụ, nhất là đối với người đứng đầu. Thúc đẩy, tạo sự đổi mới mạnh mẽ tư duy hành chính từ kiểm soát sang đồng hành, coi doanh nghiệp là đối tượng “phục vụ” thay vì đối tượng “quản lý”, đảm bảo nguyên tắc “nói đi đôi với làm” thống nhất trong toàn hệ thống chính trị. Chính phủ sớm ban hành Chỉ thị yêu cầu các bộ, ngành, địa phương chuyển toàn bộ quy trình hành chính sang hậu kiểm, trừ một số lĩnh vực đặc thù (an ninh, quốc phòng…); có hướng dẫn cụ thể về trách nhiệm công vụ của người đứng đầu cấp uỷ, chính quyền các cấp trong hỗ trợ doanh nghiệp, gắn với công tác thi đua, khen thưởng; chuẩn hóa toàn bộ quy trình cấp phép đầu tư theo mô hình điện tử, rút ngắn thời gian công bố kết quả.

Thứ hai, khẩn trương thể chế hoá các quan điểm của Đảng thành pháp luật và bảo đảm thực hiện nghiêm minh trong toàn hệ thống chính trị, doanh nghiệp, người dân. Nghiên cứu xây dựng Luật phát triển kinh tế tư nhân và sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật có liên quan, bảo đảm thể chế hoá đầy đủ các chủ trương nêu tại Nghị quyết số 68. Trong đó, thiết lập hệ thống cạnh tranh công bằng, xác định rõ danh sách các hành vi tác động tiêu cực đến tiếp cận thị trường và phân biệt đối xử trong cạnh tranh thị trường đối với kinh tế tư nhân. Tạo ra cơ chế thúc đẩy đầu tư và hỗ trợ tài chính, yêu cầu các tổ chức tài chính thiết lập hệ thống đánh giá tín dụng phù hợp với kinh tế tư nhân và hỗ trợ tài chính. Khuyến khích phát triển khoa học công nghệ, doanh nghiệp tư nhân đi đầu trong các dự án lớn, trọng điểm quốc gia và thiết lập các cơ sở hạ tầng nghiên cứu đổi mới sáng tạo quốc gia. Thiết lập hệ thống bảo vệ quyền và lợi ích của các chủ thể tham gia thị trường, phân biệt rõ ràng giữa tranh chấp kinh tế và tội phạm hình sự, nghiêm cấm các hành vi lạm dụng pháp luật trong quản lý thị trường. Đưa ra các biện pháp nhằm hỗ trợ dịch vụ thủ tục và chính sách cho kinh tế tư nhân, chuẩn hoá các thủ tục hành chính và chính sách. Sửa đổi Bộ luật Hình sự, tách bạch rõ hành vi gian lận - trục lợi với sai sót hành chính thông thường.

Thứ ba, đặc biệt quan tâm hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ, thúc đẩy phát triển xã hội có tư tưởng khởi nghiệp, khát vọng làm chủ, đặc biệt trong lĩnh vực đổi mới sáng tạo. Triển khai ngay gói tín dụng ưu đãi riêng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, thông qua quỹ bảo lãnh tín dụng nhà nước. Dành quỹ đất ưu tiên 5-10% tại các khu công nghiệp công nghệ cao cho startup thuê với giá ưu đãi. Mở rộng mô hình sandbox pháp lý toàn quốc, cho phép thử nghiệm thực tế với fintech, AI, nông nghiệp số trong khung thời gian bảo vệ pháp lý rõ ràng. Xây dựng trung tâm tư vấn pháp lý miễn phí hoặc trợ giá cho doanh nghiệp vừa và nhỏ tại các địa phương.

Thứ tư, xây dựng đội ngũ doanh nhân thật sự trở thành “chiến sỹ” trên mặt trận kinh tế, tham gia thực chất trong hoạch định chính sách. Bảo vệ, hỗ trợ, khuyến khích, tôn vinh đội ngũ doanh nhân có lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, ý thức tuân thủ pháp luật, có khát vọng vươn lên làm giàu cho mình và góp phần làm giàu cho đất nước, có kiến thức và năng lực quản trị kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, có trách nhiệm với người lao động và cộng đồng xã hội. Tạo điều kiện thuận lợi để doanh nhân tham gia phản biện chính sách, đóng góp vào quá trình hoạch định và thực thi chiến lược phát triển. Các bộ ngành khi xây dựng luật, nghị định cần lắng nghe thấu đáo ý kiến của người dân, doanh nghiệp, nhất là các doanh nhân thực chiến. Hỗ trợ ngân sách và chuyên môn để xây dựng các hiệp hội ngành nghề mạnh, độc lập, có năng lực phản biện chính sách. Khuyến khích thành lập Hội đồng doanh nhân tư nhân cấp quốc gia, tư vấn trực tiếp cho Chính phủ trong chiến lược kinh tế - công nghiệp dài hạn.

Chúng ta có truyền thống quật cường, lòng yêu nước nồng nàn, cơ sở lý luận, thực tiễn, cơ sở chính trị - pháp lý chặt chẽ, toàn diện; với khát vọng, ý chí, sự thống nhất đồng lòng, quyết tâm cao của cả hệ thống chính trị, doanh nghiệp, doanh nhân và toàn dân trong thực hiện mục tiêu “ổn định, phát triển chất lượng cao, nâng cao đời sống mọi mặt của người dân”, nhất định chúng ta sẽ thực hiện thắng lợi Nghị quyết, sớm đưa kinh tế tư nhân phát triển xứng tầm, thật sự trở thành động lực quan trọng nhất, trụ cột bảo đảm sự phát triển vững mạnh của nền kinh tế quốc gia, hiện thực khát vọng xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.