Ca sinh hiếm gặp, em bé chào đời vẫn nằm nguyên trong túi ối

Sáng ngày 5/5, tại Bệnh viện Hoàn Mỹ Vinh (Nghệ An), một em bé đã cất tiếng khóc chào đời theo cách thiêng liêng và kỳ diệu nhất, sinh ra trong bọc ối còn nguyên vẹn.

Theo thông tin từ Bệnh viện Hoàn Mỹ Vinh, các y bác sĩ vừa thực hiện thành công ca phẫu thuật lấy thai cho sản phụ L.T.N. (SN 1995, trú huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam), bé gái nặng 3,3 kg chào đời an toàn.
Đặc biệt, trong ca mổ em bé vẫn nằm nguyên vẹn trong túi ối, hiện tượng dân gian gọi là "đẻ bọc điều". Sau khi đưa bé ra khỏi bụng mẹ, bác sĩ chủ động làm vỡ túi ối.
Được biết, sản phụ có thai tuần thứ 38, 6 ngày. Đây là lần sinh mổ thứ 2 trên vết mổ cũ. Gia đình cho biết, với ca sinh mổ đặc biệt này dự định sẽ đặt tên con là Bảo Ngọc.
Ca sinh hiem gap, em be chao doi van nam nguyen trong tui oi
Ca sinh mổ hiếm gặp với tỷ lệ chỉ 1/80.000 ca. (Ảnh cắt từ clip Bệnh viện Hoàn Mỹ Vinh)
Theo các bác sĩ, đây là trường hợp hiếm gặp, với tỷ lệ chỉ khoảng 1/80.000 ca sinh. Trong thai kỳ, thai nhi phát triển bên trong túi ối - một màng mỏng nhưng chắc chắn, chứa đầy nước ối giúp giữ ấm, bảo vệ thai nhi và hỗ trợ quá trình trao đổi chất.
Thông thường khi đến kỳ sinh nở, túi ối sẽ vỡ để tạo điều kiện cho em bé chào đời. Ở các ca sinh mổ, túi ối thường bị vỡ trong quá trình bác sĩ thao tác.
Tuy nhiên trong một số trường hợp hiếm gặp, bé sơ sinh vẫn chào đời trong túi ối nguyên vẹn, bao quanh bởi màng bọc, dây rốn và mạch máu nuôi dưỡng, giống như khi còn nằm trong bụng mẹ.
Hiện tại, sức khỏe của sản phụ L.T.N. và em bé đều ổn định, được các y bác sĩ Bệnh viện Hoàn Mỹ Vinh chăm sóc.

Giành lại sự sống cho sản phụ gặp tai biến nguy hiểm

Các bác sĩ gọi hành trình giành lại sự sống cho sản phụ T. là điều kỳ diệu, khi chị bị tắc mạch ối - biến chứng sản khoa nguy hiểm bậc nhất, tỷ lệ tử vong ở mẹ lên đến 90% và ở trẻ sơ sinh lên đến 60%.

Bệnh nhân là chị N.M.T (33 tuổi) vào Bệnh viện Phụ Sản Hà Nội để sinh con lần hai, thai IVF (thụ tinh trong ống nghiệm) 39 tuần. Do được dự báo là ca sinh tiềm ẩn nhiều nguy cơ, các bác sĩ và kỹ thuật viên Khoa Gây mê Hồi sức đã chuẩn bị mọi phương án, sẵn sàng ứng phó với tình huống khẩn cấp.
Trước đó, các chỉ số của mẹ và bé hoàn toàn bình thường. Tuy nhiên, chị T. bất ngờ xuất hiện triệu chứng khó thở, suy hô hấp, mạch khó bắt, tím tái toàn thân, vỡ hồng cầu, tụt huyết áp nghiêm trọng. Đồng thời, tim thai đập chậm bất thường - dấu hiệu cảnh báo nguy hiểm đến cả mẹ và bé.
Ngay lập tức, chế độ báo động đỏ được kích hoạt. Ê-kíp trực nhanh chóng hội chẩn và nghi ngờ sản phụ bị tắc mạch ối.
Gianh lai su song cho san phu gap tai bien nguy hiem
Các bác sĩ Bệnh viện Phụ Sản Hà Nội trong ca mổ cấp cứu cho sản phụ. Ảnh: BVCC 
Đây là tai biến tối cấp trong sản khoa, với tỷ lệ mắc chỉ khoảng 12/100.000 ca sinh, tỷ lệ tử vong ở mẹ lên đến 90% và ở trẻ sơ sinh lên đến 60%.
Quyết định mổ cấp cứu được đưa ra khẩn trương nhằm giữ lại sự sống cho cả hai mẹ con. Ê-kíp thầy thuốc tích cực hồi sức, đưa chị T. về trạng thái ổn định để tiến hành phẫu thuật. Bệnh nhân được đặt nội khí quản, thông khí, thở máy với chế độ phù hợp để hỗ trợ tối đa chức năng hô hấp.
Trong quá trình mổ, sản phụ bị rối loạn đông máu nặng dẫn đến đờ tử cung. Các bác sĩ đã nỗ lực tối đa để kiểm soát tình trạng và cứu người bệnh.
Sau phẫu thuật, chị T. tiếp tục được theo dõi sát sao và xử trí rối loạn đông máu nghiêm trọng. Trong quá trình hồi sức, có thời điểm cần dùng thuốc vận mạch liều cao, truyền máu và các chế phẩm máu để duy trì huyết động.
Nhờ can thiệp kịp thời, các chỉ số sinh tồn của sản phụ dần cải thiện và ổn định. Bé gái nặng 2,3kg chào đời an toàn, được chuyển đến Bệnh viện Nhi Trung ương để tiếp tục chăm sóc.
Sau khi mạch và huyết áp ổn định, chị T. được chuyển đến cơ sở y tế khác để tiếp tục điều trị. Đến ngày 1/5, người bệnh tỉnh táo, sức khỏe ổn định và xuất viện.
Các bác sĩ Bệnh viện Phụ Sản Hà Nội đánh giá, đây là "điều kỳ diệu", là thành quả của tập thể y tế không ngừng nỗ lực.
Các bác sĩ khuyến cáo, trong sản khoa, không ít trường hợp thai kỳ khỏe mạnh nhưng gặp bất thường khi sinh. Vì vậy, mẹ bầu cần theo dõi sức khỏe định kỳ theo chỉ định của bác sĩ sản khoa để hành trình vượt cạn được diễn ra thuận lợi, an toàn nhất.

Sản phụ 135 kg vượt cạn thành công, bé chào đời 4,1 kg

Theo Trung tâm Y tế huyện Cẩm Khê (Phú Thọ), ca "vượt cạn" của sản phụ diễn ra thuận lợi, em bé sinh ra với cân nặng 4,1 kg, hồng hào, khóc to, phản xạ tốt.

Ngày 4/5, Trung tâm Y tế huyện Cẩm Khê (Phú Thọ) cho biết, các bác sĩ khoa Phụ sản và Chăm sóc sức khỏe sinh sản của Trung tâm đã phẫu thuật lấy thai thành công cho sản phụ nặng cân nhất từ trước tới nay.

Lợi ích bất ngờ của cây hẹ

Hẹ là một loại rau khá lành tính. Cây hẹ có một số công dụng trong đời sống và trong y học cổ truyền.

Theo y học cổ truyền, cây lá hẹ tính nhiệt, khi nấu chín thì ôn, vị cay, đi vào các kinh can, vị và thận. Lá hẹ có tác dụng ôn trung, hành khí, tán ứ và giải độc. Thường được sử dụng trong điều trị các chứng bệnh đau tức ngực, nấc, ngã chấn thương,...

Phần gốc rễ cây hẹ có tính ấm, vị cay, có tác dụng ôn trung, hành khí, tán ứ, thường được dùng để chữa ngực bụng đau tức do thực tích, đới hạ, các chứng ngứa,... Hạt của cây hẹ có tính ấm, vị cay ngọt, đi vào các kinh can và thận, nó có tác dụng bổ can, thận, tráng dương và cố tinh. Thường được dùng làm thuốc chữa chứng tiểu tiện nhiều lần, mộng tinh, di tinh, lưng gối yếu mềm.

Theo nghiên cứu hiện đại, cây lá hẹ có chứa nhiều chất dinh dưỡng có thể mang lại một số lợi ích cho sức khỏe:

Chống ung thư: Một số nghiên cứu đã đặc biệt gợi ý rằng các loại rau thuộc họ allium, bao gồm cả hẹ, có thể có tác dụng chống ung thư.

Lá hẹ tốt cho giấc ngủ và tâm trạng: Lá hẹ có chứa một lượng nhỏ choline, đây là một chất quan trọng giúp duy trì cấu trúc của màng tế bào. Ngoài ra, choline cũng giúp cải thiện trí nhớ, tâm trạng, kiểm soát cơ bắp và các chức năng khác của não và hệ thần kinh.

Nguồn vitamin K dồi dào: Lá hẹ có chứa vitamin K, rất quan trọng đối với sức khỏe của xương và quá trình đông máu. Các nguồn cung cấp vitamin K khác gồm có rau lá xanh, dầu thực vật và trái cây bao gồm quả việt quất và quả sung.

Cung cấp folate: Cây lá hẹ cũng chứa folate, chất dinh dưỡng cần thiết để phòng ngừa chứng sa sút trí tuệ, bao gồm cả bệnh Alzheimer.

Loi ich bat ngo cua cay he
 Ảnh minh hoạ/Internet 

Một số bài thuốc từ lá hẹ

Bài thuốc chữa cảm mạo, ho do lạnh: Sử dụng 250g lá hẹ, cùng với 25g gừng tươi, cho thêm ít đường đem hấp chín, ăn cái, uống nước, sử dụng liền 5 ngày.

Bài thuốc chữa nhức răng: Sử dụng một nắm hẹ bao gồm cả rễ, đem rửa sạch, giã nhuyễn sau đó đặt vào chỗ đau cho đến khi khỏi.

Bài thuốc hỗ trợ điều trị đái tháo đường: Sử dụng từ 100-200g rau hẹ, nấu cháo, nấu canh hoặc xào ăn hàng ngày. Không dùng muối hoặc chỉ sử dụng một chút muối khi chế biến món ăn. Hoặc sử dụng củ rễ hẹ 150g, thịt sò 100g, đem nấu canh ăn thường xuyên. Bài thuốc này có tác dụng tốt đối với bệnh nhân bị đái tháo đường, cơ thể đã suy nhược.

Bài thuốc nhuận tràng, chữa táo bón: Sử dụng hạt cây hẹ rang vàng, giã nhỏ, mỗi lần dùng 5g hòa với nước sôi uống, ngày uống 3 lần, dùng liền trong 10 ngày.

Bài thuốc chữa chứng đái dầm ở trẻ em: Dùng 50 gạo nấu cháo, sau đó lấy 25g rễ hẹ vắt lấy nước cho vào cháo đang sôi, rồi thêm ít đường, ăn nóng, dùng liên tục trong 10 ngày.

Bài thuốc chữa ho trẻ em do cảm lạnh: Sử dụng lá hẹ xắt nhỏ trộn với đường phèn hoặc mật ong cho vào bát, sau đó để vào nồi cơm hấp chín. Cho trẻ uống mỗi lần 1 thìa cà phê, ngày uống 2 - 3 lần, dùng liên tục trong 5 ngày.

Bài thuốc giúp bổ mắt: Sử dụng 150g rau hẹ, 150g gan dê thái mỏng, ướp gia vị vừa rồi xào với rau hẹ, khi xào dùng lửa to, ăn với cơm, cách ngày ăn một lần, 10 ngày một liệu trình.

Bài thuốc hỗ trợ điều trị xuất tinh sớm: Sử dụng 200g rau hẹ, 200g tôm nõn, xào ăn với cơm.

Bài thuốc chữa đau lưng, mỏi gối, ăn uống kém: Sử dụng 20g hạt hẹ, gạo 100g, đem nấu cháo ăn nóng ngày 2 lần, 10 ngày là một liệu trình.

Hẹ là một loại rau quen thuộc trong bữa cơm của người Việt, có thể chế biến thành các món xào, món canh. Hẹ còn là một vị thuốc trong Đông y, có tác dụng điều trị rất nhiều chứng bệnh, bồi bổ chất dinh dưỡng cho cơ thể. Tuy nhiên, khi có ý định dùng hẹ để điều trị bệnh, người bệnh cần hỏi ý kiến của bác sĩ, không nên tùy tiện áp dụng điều trị.