Công trình “Biến động xu thế và biến động mực nước biển dọc bờ biển Việt Nam: Những kết quả mới từ số liệu vệ tinh đo cao và trạm hải văn ven bờ” trên tạp chí khoa học Advances in Space Research của TS. Phạm Tiến Đạt, Phó Trưởng khoa Khí tượng Thủy văn và Hải dương học – Trường Đại học Khoa học Tự nhiên - ĐHQGHN, đã làm rõ những biến động đáng chú ý của mực nước biển Việt Nam từ dữ liệu vệ tinh và trạm quan trắc ven bờ.
Nghiên cứu cho thấy, mực nước biển ven bờ Việt Nam dâng nhanh gấp 2-2,5 lần trung bình toàn cầu từ đầu thế kỷ XXI đến nay,
Đây cũng là công trình tâm đắc nhất của anh trong khuôn khổ đề tài cấp ĐHQGHN về biến động mực nước biển khu vực Biển Đông, đóng góp cho việc ứng phó với biến đổi khí hậu và bảo vệ cộng đồng ven biển.
Hành trình “đọc nhịp thở” đại dương
Trò chuyện với Tri thức và Cuộc sống, TS Phạm Tiến Đạt cho hay, anh sinh ra và lớn lên ở Cẩm Phả (Quảng Ninh), nơi những triền núi than sà xuống chạm mặt nước xanh thẳm, Phạm Tiến Đạt sớm quen với tiếng sóng và mùi muối mằn mặn của gió biển. Từ những buổi theo cha ra bến, cậu học trò nhỏ nuôi ước mơ được làm điều gì đó để hiểu và bảo vệ vùng biển quê hương. “Hồi ấy, tôi chỉ nghĩ đơn giản: học về biển, để sau này làm ở Ban quản lý Vịnh Hạ Long – di sản thiên nhiên thế giới”, anh cười nhớ lại.
Năm 2002, Đạt bước vào giảng đường Trường Đại học Khoa học Tự nhiên (ĐHQGHN), chọn ngành Hải dương học, một ngành hiếm người theo học thời ấy. Tốt nghiệp loại giỏi, thủ khoa đầu ra, anh tiếp tục học thạc sĩ, rồi công tác tại Tổng cục Biển và Hải đảo và sau đó là Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí hậu.
Từ môi trường thực tiễn, anh càng khao khát được tiếp cận sâu hơn với tri thức mới. Năm 2011, anh giành học bổng toàn phần tiến sĩ tại Đại học Công nghệ Nanyang (Singapore), một trong những cơ sở nghiên cứu hàng đầu châu Á.
“Ở Singapore, tôi có cơ hội làm việc với những nhà khoa học giỏi và được chạm vào những công nghệ, dữ liệu hiện đại. Tôi chỉ mong sau này có thể mang những kiến thức ấy về phục vụ đất nước”, anh kể.
Năm 2017, TS. Phạm Tiến Đạt trở về Trường Đại học Khoa học Tự nhiên. Từ một giảng viên trẻ, anh nhanh chóng khẳng định năng lực chuyên môn, trở thành Trưởng bộ môn Khoa học và Công nghệ Biển (2023) và Phó Trưởng khoa Khí tượng Thủy văn và Hải dương học (2024).
“Nghề chọn người”, anh chia sẻ về hành trình “đọc nhịp thở” đại dương, phập phồng vui buồn theo từng nhịp nước biển dâng của mình. Trở về gắn bó với ngôi trường từng nuôi dưỡng ước mơ tuổi trẻ, anh có thêm điểm tựa để tiếp tục gieo tình yêu biển cho thế hệ sau.
Mực nước biển dâng nhỏ ẩn chứa biến đổi lớn của khí quyển đại dương
TS. Phạm Tiến Đạt cho hay, liên tiếp những năm gần đây, các cơn bão và thiên tai biển diễn ra dồn dập, trong đó mực nước biển là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến các cộng đồng ven biển, đặc biệt là các tỉnh thành nằm dọc bờ biển nước ta.
Với những trăn trở về việc làm thế nào để hiểu rõ hơn cơ chế biến động của mực nước biển, qua đó góp phần giảm thiểu rủi ro cho các cộng đồng ven biển, TS. Phạm Tiến Đạt cùng các cộng sự đã dành nhiều năm miệt mài phân tích dữ liệu vệ tinh, kết hợp với hệ thống trạm quan trắc ven bờ trong nước.
Công trình nghiên cứu mới nhất, “Biến động xu thế và biến động mực nước biển dọc bờ biển Việt Nam, các kết quả mới từ số liệu vệ tinh và trạm quan trắc ven bờ”được công bố trên tạp chí ISI uy tín, thuộc nhóm chuyên ngành hàng đầu về ứng dụng số liệu vệ tinh và các tiến bộ trong nghiên cứu không gian đã mở ra nhiều hướng tiếp cận mới trong việc đánh giá và dự báo biến động mực nước biển, không chỉ cho khu vực Việt Nam mà còn cho toàn vùng Biển Đông.
Điểm mới của công trình là đã sử dụng nhiều dữ liệu mới, kỹ thuật mới, giúp phác họa một bức tranh tương đối toàn cảnh, không chỉ giới hạn ở phạm vi biển Việt Nam mà còn mở rộng ra toàn khu vực Biển Đông. Đặc biệt, đây cũng là một trong những công trình có sự tham gia của nhiều nhà khoa học Việt Nam, với tỷ lệ nội địa hóa cao, thể hiện năng lực làm chủ dữ liệu và phương pháp tính toán hiện đại.
Từ các kết quả và số liệu có được, công trình chỉ ra, xu thế mực nước biển dâng ở khu vực Biển Đông nói chung và dọc bờ biển Việt Nam nói riêng vẫn tiếp tục tăng lên từ đầu thế kỷ XX đến nay.
“Điểm đáng chú ý, tốc độ dâng mực nước biển dọc vùng ven bờ biển Việt Nam cao gấp 2–2,5 lần so với trung bình thế giới, nghĩa là Việt Nam nằm trong nhóm những nơi có tốc độ dâng nhanh nhất toàn cầu. Ngoài ra, cơ chế tác động lên biến động mực nước biển dọc bờ biển Việt Nam khá phức tạp, không giống nhau giữa các khu vực. Điều này khiến các nghiên cứu trở nên phức tạp hơn và đòi hỏi phải có thêm nhiều công trình tiếp theo để làm rõ cơ chế tác động”, TS Đạt cho hay.
TS Đạt cho biết, việc hiểu rõ cơ chế đó giúp chúng ta nắm được quy luật, nhận diện biến động, từ đó dự báo và xây dựng các kịch bản biến đổi khí hậu và nước biển dâng ở Việt Nam tốt hơn trong tương lai.
Từ công trình này, TS Đạt cho rằng cần đưa ra một số cảnh báo. Trong đó, đầu tiên là mực nước biển trung bình nước ta đang dâng nhanh giai đoạn từ đầu thế kỷ 21 đến nay. Khi đó, mực nước tổng cộng trong các sự kiện thời tiết cực đoan như bão sẽ trở nên nguy hiểm hơn , có thể phá hủy nhiều công trình ven bờ, gây thiệt hại về người và tài sản. Khi mực nước biển trung bình tăng, nước dâng do bão sẽ cao hơn, vào sâu trong đất liền hơn.
“Đây là cảnh báo đã được nhiều quốc gia trên thế giới nhấn mạnh: chỉ vài milimet dâng trung bình mỗi năm cũng có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng”, TS Đạt cho hay.
TS Đạt cho rằng, chúng ta cần nâng cao cảnh giác và năng lực cảnh báo thiên tai ven biển, đặc biệt là bão, nguyên nhân trực tiếp gây nước dâng. Đồng thời, phải hiểu rõ hơn các cơ chế tác động, ví dụ các dao động khí hậu quy mô lớn như El Niño hay La Niña. Khi xuất hiện những hiện tượng này, kết hợp với thủy triều, triều cường, thì các tác động đến vùng ven biển có thể nghiêm trọng hơn.
“Nếu dựa vào kết quả nghiên cứu để dự báo sớm, chúng ta có thể chủ động hơn trong việc phòng tránh và giảm thiểu thiệt hại cho người dân ven biển”, TS Đạt nhấn mạnh.
TS Đạt cho hay, theo số liệu nghiên cứu, khu vực vịnh Bắc Bộ, ven biển Nam Trung Bộ và Đông Nam Bộ nước ta hiện là những vùng có tốc độ nước biển dâng tăng nhanh và giá trị cao hơn trung bình toàn cầu. Riêng khu vực vịnh Bắc Bộ có tốc độ tăng khoảng hơn gấp đôi trung bình thế giới. Điều này cho thấy nếu chỉ dựa vào con số trung bình toàn cầu mà bỏ qua sự khác biệt cục bộ, chúng ta có thể đánh giá thấp mức độ nguy hiểm. Đây là vấn đề đáng lo ngại, cần được nghiên cứu sâu hơn và có giải pháp chủ động ứng phó.
Để hiểu và ứng phó hiệu quả với tình trạng nước biển dâng, theo TS Đạt, điều quan trọng không chỉ nằm ở việc ghi nhận con số, mà là phải có dữ liệu quan trắc đầy đủ và nghiên cứu bài bản làm nền tảng cho các quyết sách lâu dài.
Về chính sách, Việt Nam hiện đã có một số kịch bản biến đổi khí hậu và nước biển dâng. Tuy nhiên, từ góc độ chuyên môn, chúng ta cần xây dựng thêm nhiều trạm quan trắc mực nước ven bờ. Nếu thiếu số liệu, rất khó để có nghiên cứu đầy đủ và chính xác. Hiện đã có một số đề tài đề xuất xây dựng thêm các trạm quan trắc, đặc biệt là quan trắc tự động, điều này rất cần thiết.
Ngoài ra, cần quan tâm hơn nữa đến các nghiên cứu về mực nước biển. Nếu không đầu tư cho nghiên cứu khoa học cơ bảnđể hiểu rõ hơn về cơ chế và quá trình tác động, sẽ rất khó để có cơ sở khoa học cho các nhận định và dự báo tương lai.
“Theo tôi, hiện nay mạng lưới quan trắc khí tượng trên đất liền khá dày, nhưng trên biển mới chỉ có khoảng 17 trạm quan trắc mực nước, con số này là quá ít. Chúng ta nên đầu tư mở rộng hệ thống quan trắc này để có cơ sở dữ liệu đầy đủ hơn, nhất là trong bối cảnh tác động của biến đổi khí hậu ngày càng phức tạp. Dữ liệu vệ tinh tuy có ưu thế bao phủ rộng, nhưng vẫn cần được kết hợp với dữ liệu trạm quan trắc để đạt độ chính xác cao hơn”, TS Đạt chia sẻ.
Mong thu hút được người giỏi vào ngành học nhiều thú vị, ý nghĩa lớn
Trong phòng làm việc của TS Phạm Tiến Đạt ở Trường ĐH Khoa học Tự nhiên, những tấm bản đồ mực nước biển, các mô hình dữ liệu vệ tinh phủ kín bàn. Với anh, nghiên cứu biển là lĩnh vực mở, đòi hỏi kiến thức liên ngành. Càng làm, anh càng thấy còn nhiều điều chưa khám phá hết, càng thêm đam mê. Những chuyến khảo sát lênh đênh trên các vùng biển giúp anh nhận ra rõ hơn ý nghĩa của ngành mình theo đuổi: hiểu để góp phần vào việc giảm thiểu thiệt hại cho cộng đồng dân cư ven biển.
Anh vẫn nhớ chuyến khảo sát đầu tiên khi còn là sinh viên năm 3 – bảy ngày lênh đênh trên biển Nam Định cùng các thầy và chuyên gia nước ngoài. “Đó là lúc tôi hiểu thế nào là nghiên cứu biển thực thụ, hiểu vì sao mình chọn con đường này.” Nhiều năm sau, khi đến khảo sát tại những hòn đảo Thái Lan từng bị sóng thần 2004 tàn phá, anh càng thấm thía ý nghĩa của công việc: nghiên cứu không phải để làm giàu tri thức cá nhân, mà để giúp con người sống an toàn hơn trước thiên nhiên.
“Với tôi, nghiên cứu biển không phải chỉ là công việc, mà là cách trả lại giá trị cho quê hương ven biển, nơi đang và sẽ chịu ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu và nước biển dâng’, anh chia sẻ.
Con đường khoa học không bằng phẳng, nhưng từ những trải nghiệm anh nhận ra, nếu thực sự chuyên tâm, sẽ tạo nên con đường đi riêng. Là một người thầy, anh cũng truyền lửa đam mê, những đúc rút, trải nghiệm ấy của mình cho thế hệ trẻ.
Anh luôn nói với sinh viên, học ngành Hải dương học là học để hiểu, để hành động. Các em ra trường có thể làm rất nhiều việc, nghiên cứu, quan trắc, thiết kế công trình biển, tư vấn môi trường, thậm chí trong lực lượng hải quân, cảnh sát biển… Chỉ cần các em thực sự chủ động và yêu nghề, cơ hội luôn mở rộng.
Trăn trở hiện nay của anh là ngành vẫn còn bị coi là “khô khan”, ít hấp dẫn, trong khi Việt Nam là quốc gia ven biển chịu nhiều thiên tai, rất cần các nghiên cứu cơ bản về khí hậu, nước biển dâng và Biển Đông.
“Tôi mong có cơ chế đầu tư xứng đáng hơn cho ngành Hải dương học, cơ chế thu hút người giỏi, để đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ trực tiếp cho công tác phòng chống và giảm nhẹ thiên tai, góp phần thiết thực vào sự phát triển bền vững của đất nước”, TS. Đạt chia sẻ.
Khoa Khí tượng Thủy văn và Hải dương học (Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN) vừa long trọng tổ chức Lễ kỷ niệm 30 năm thành lập Khoa (1995–2025) và 59 năm truyền thống đào tạo trong lĩnh vực Khí tượng, Thủy văn và Hải dương học.
Từ nền tảng giảng dạy ngành Khí tượng – Hải dương tại Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội từ năm 1966, đến nay, Khoa đã trở thành trung tâm đào tạo và nghiên cứu hàng đầu của Việt Nam trong các lĩnh vực dự báo khí hậu, quản lý tài nguyên nước, nghiên cứu biển và ứng phó biến đổi khí hậu.
Ba thập kỷ qua, Khoa đã đào tạo hàng nghìn cử nhân, hàng trăm thạc sĩ, tiến sĩ; các chuyên gia đầu ngành cho đất nước. Nhiều công trình nghiên cứu của Khoa đã góp phần giảm thiểu rủi ro thiên tai, phục vụ phát triển bền vững đất nước.
Phát huy truyền thống gần sáu thập kỷ, Khoa đang tiếp tục khẳng định vị thế tiên phong trong hệ thống giáo dục đại học và nghiên cứu khoa học Việt Nam, vững vàng bước vào giai đoạn hội nhập và chuyển đổi số.