Trao đổi với PV Tri thức và Cuộc sống, PGS.TS Vũ Thanh Ca, Khoa Môi trường, Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội, người từng có 8 năm giảng dạy môn Kỹ thuật môi trường sông tại Đại học Saitama (Nhật Bản) và từng là chuyên gia trong nhóm quản lý các hồ chứa khu vực Kanto cho biết, nhiều quan điểm hiện nay về việc “thủy điện gây lũ” là chưa chính xác về mặt khoa học và thực tiễn quản lý hồ chứa.
 Thủy điện không tạo thêm nước, không thể gây lũ
PGS.TS Vũ Thanh Ca cho hay, năm 2010, Nhóm Công tác châu Âu về đập và lũ lụt đã xuất bản một báo cáo đánh giá khả năng giảm nhẹ lũ lụt của đập và trên cơ sở tính toán về mức độ giảm nhẹ lũ lụt của tất cả các nước châu Âu.
Kết quả cho thấy, đập bao gồm cả thủy điện, thủy lợi hay cấp nước đều giúp giảm nhẹ lũ lụt ở các quốc gia châu Âu. Tuy nhiên, mức độ giảm lũ phụ thuộc vào dung tích hồ và quá trình vận hành. Các hồ lớn, có khả năng dự báo tốt và xả nước trước khi lũ đến, có thể làm giảm đáng kể mực lũ ở hạ du, trong khi hồ nhỏ hầu như không có khả năng điều tiết.
Tại Việt Nam, việc xây dựng và vận hành các hồ thủy điện được quản lý chặt chẽ bằng hệ thống văn bản pháp luật. Đặc biệt, Luật Thủy lợi và Nghị định số 114/2018/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý an toàn đập, hồ chứa nước đã quy định về lập, phê duyệt, công khai và thực hiện quy trình vận hành hồ chứa trong trường hợp có lũ, như là trường hợp khẩn cấp.
Trong đó, Luật thủy lợi quy định trong quá trình thi công, chủ đầu tư xây dựng đập, hồ chứa nước có trách nhiệm lập phương án ứng phó thiên tai cho công trình, vùng hạ du đập trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt và tổ chức thực hiện. Chủ đầu tư xây dựng đập, hồ chứa nước cũng có trách nhiệm lập quy trình vận hành hồ chứa, phương án ứng phó với tình huống khẩn cấp trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt trước khi tích nước và bàn giao cho tổ chức, cá nhân khai thác, cơ quan quản lý nhà nước về thủy lợi, phòng, chống thiên tai.
 Các hồ thủy điện ở Việt Nam được vận hành theo các quy trình được xây dựng theo chuẩn quốc tế. Nói chung, quy trình xả lũ của đập thủy điện do các chủ đầu tư xây dựng, trình phê duyệt có các thông số kỹ thuật khác nhau, nhưng có các điểm chính như sau.
Khi mưa về, hồ xả nước tới mức “đón lũ”. Gần đây, mức đón lũ được giảm xuống, tùy vào hồ có chức năng điều tiết lũ hay không.
Mưa vẫn lớn, lượng nước về hồ khá lớn; nước trong hồ dâng lên vượt một mức nào đó (ngưỡng thứ nhất, gọi là ngưỡng xả), hồ bắt đầu xả nước để giảm tốc độ nước dâng trong hồ. Lưu lượng xả nước tăng theo mực nước trong hồ nhưng luôn nhỏ hơn lưu lượng nước về hồ.
Khi mực nước trong hồ đạt tới ngưỡng thứ 2, hồ xả nước với lưu lượng bằng lưu lượng nước về hồ. Lúc đó có thủy điện hay không có thủy điện lượng nước về hạ lưu vẫn thế, hay nói cách khác là khi đó, có hồ cũng như không. Thủy điện không xả quá lượng nước về vì nó vẫn cần tích nước phục vụ phát điện. Nước trong hồ là tài sản, là tiền nên các nhà quản lý thủy điện không xả bừa bãi để gây ngập lụt ở hạ du.
Các hồ thủy điện nhỏ ở Việt Nam nói chung không có chức năng điều tiết lũ nên mức đón lũ của nó rất nhỏ, khoảng 4 m thấp hơn mức nước mà nó xả nhiều nhất, tức lưu lượng xả lũ đúng bằng lưu lượng nước vào hồ.
“Cần chú ý rằng hồ khi lũ về thì hồ không cần xả với lưu lượng lớn hơn lưu lượng nước chảy vào hồ, vì chỉ cần xả với lưu lượng đúng bằng lưu lượng nước vào hồ thì mực nước trong hồ sẽ không tăng lên, và đập thủy điện sẽ an toàn.
Như vậy, mặc dù không có chức năng điều tiết lũ lụt, các hồ thủy điện nhỏ vẫn tích được ít nhất một lượng nước có chiều cao 4m và diện tích bằng diện tích mặt hồ. Điều này phù hợp với nội dung báo cáo của châu Âu được dẫn ở trên”, PGS.TS Vũ Thanh Ca phân tích.
Khi nào thủy điện thực sự gây “lũ chồng lũ”?
Theo PGS.TS Vũ Thanh Ca, hiện nay, tất cả các hồ chứa của Việt Nam đều có chế độ vận hành, trong đó có chế độ quan trắc mực nước và từ đó tính ra lưu lượng nước xả khỏi hồ khi có lũ tuân thủ Nghị định số 114/2018/NĐ-CP và một số nghị định khác sửa đổi nghị định này. Cụ thể:
Đập, hồ chứa nước có cửa van điều tiết lũ và đập, hồ chứa nước quan trọng đặc biệt, lớn có tràn tự do: Cung cấp thông tin, dữ liệu quan trắc khí tượng thủy văn cho chủ quản lý đập, hồ chứa nước; cơ quan quản lý nhà nước về thủy lợi, thủy điện, cơ quan phòng chống thiên tai các cấp nơi có đập, hồ chứa nước, vùng hạ du đập; Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Bộ Công Thương theo phạm vi quản lý của bộ; Ban Chỉ đạo Phòng thủ dân sự quốc gia trong tình huống khẩn cấp;
Đập, hồ chứa nước vừa và nhỏ có tràn tự do: Cung cấp thông tin, dữ liệu quan trắc khí tượng thủy văn cho chủ quản lý đập, hồ chứa nước, cơ quan quản lý nhà nước về thủy lợi, thủy điện, cơ quan phòng chống thiên tai các cấp nơi có đập, hồ chứa nước, vùng hạ du đập.
Việc cung cấp thông tin, báo cáo được thực hiện theo một trong các hình thức sau: Gửi trực tiếp, bằng fax, bằng mạng vi tính, qua điện thoại, bằng máy thông tin vô tuyến điện (ICOM) hoặc các hình thức khác. Văn bản gốc phải được gửi đến chủ sở hữu, chủ quản lý để theo dõi và lưu trữ hồ sơ quản lý.
Như vậy, nếu mực nước hồ tăng lên khi lũ về thì có nghĩa là hồ chứa đang xả ít hơn lượng nước về và hồ và do vậy hồ vẫn đang điều tiết lũ. Nếu mực nước hồ không thay đổi thì hồ đang vận hành kiểu tràn, có nghĩa là lưu lượng nước về hồ bao nhiêu thì hồ xả bấy nhiêu và hồ không còn điều tiết lũ. Nếu mực nước trong hồ giảm đi khi lũ đang về thì có nghĩa là hồ đang xả nhiều hơn lưu lượng nước về và gây ra hiện tượng “lũ chồng lũ”. Trong trường hợp này, tùy theo mức độ vi phạm mà hồ sẽ bị xử phạt hành chính, phải đền bù thiệt hại do hồ gây ra và thậm chí bị xử lý hình sự.
“Từ đó có thể thấy, thủy điện không làm lũ chồng lũ. Nếu có hiện tượng lũ chồng lũ, đó là do vi phạm quy trình vận hành hồ, không phải do bản thân thủy điện”, PGS.TS Vũ Thanh Ca .
Theo PGS.TS Vũ Thanh Ca, quy trình nêu trên khá rõ ràng, nhưng vẫn có những ý kiến rằng xả lũ đập thủy điện làm tăng lũ. Có thể tìm câu trả lời qua việc làm một thí nghiệm đơn giản, để xem thủy điện có làm tăng lũ hay không.
Theo đó, ta lấy 1 cái chậu đang có 1 ít nước, cho một vòi nước vào đó và cho nước chảy vào chậu. Ban đầu ít nước, nước giữ trong chậu. Sau đó mực nước trong chậu tăng lên, tới lúc tràn. Đây là xả lũ. Lúc này lượng nước từ vòi vào chậu bằng lượng nước xả ra và mực nước trong chậu không đổi. Thủy điện là cái chậu đó. Cái chậu đó tích được thêm 1 ít nước, nhưng không sinh thêm ra nước để đổ ra ngoài. Nếu phía cuối sân có chỗ trũng thì rõ ràng là nước chảy qua chậu sẽ gây ngập ít hơn ở chỗ này so với nước xả trực tiếp ra sân.
Trong thực tế, các nghiên cứu trên thế giới và ở Việt Nam cho thấy thủy điện gây ra rất nhiều hệ lụy môi trường, sinh thái và làm gia tăng xói lở bờ biển do chặn dòng bùn cát chảy ra biển. Thủy điện cũng có những nguy cơ gây lũ quét rất lớn nếu đập bị vỡ.
“Nhưng không có cơ sở khoa học nào để nói thủy điện làm tăng lũ. Nếu không có đập thủy điện lũ vẫn thế, thậm chí cao hơn. Đối với nhiều trường hợp, nếu có các hồ thủy điện lớn và có khả năng điều tiết lũ thì nếu không có hồ thủy điện lũ cao hơn rất nhiều”, PGS.TS Vũ Thanh Ca cho hay.
Củng cố thêm luận điểm này, PGS.TS Vũ Thanh Ca dẫn thực tế, ngày trước sông Hồng ngập lụt hàng năm, và rất nhiều gia đình sống ở đó phải sắm một cái thuyền tôn để hàng năm dùng vào mùa lụt. Hầu như năm nào nước cũng ngập tới lưng nhà, thậm chí ngập đầu người và các gia đình đều phải sơ tán, chỉ để 1 người nằm thuyền trông nhà. Khi đó, trên đê sông Hồng có nhiều người dựng lều trú tạm qua lũ hoặc đến ở nhờ nhà họ hàng.
“Nhưng từ khi có đập thủy điện Hòa Bình thì hầu như không còn lũ. Đôi khi mưa lớn, đập Hòa Bình phải xả để tránh lũ nhưng chỉ tạo lũ rất nhỏ, tác hại không đáng kể”, ông Ca nói.