
Trên chiến trường Nga-Ukraine hiện nay, chiến thuật tấn công hiện tại của quân đội Nga (RFAF) về cơ bản là tác chiến quy mô nhỏ, với các nhóm bộ binh ba hoặc năm người, bí mật xâm nhập vào phòng tuyến Ukraine, hoặc xâm nhập sau vào phía sau lưng phòng tuyến Ukraine, để phát động một cuộc tấn công bất ngờ.

Chiến thuật này của RFAF thực sự linh hoạt, đã đem lại cho họ những lợi thế nhất định, hạn chế được thương vong. Nhưng vấn đề là hỏa lực yểm trợ không thể theo kịp các hoạt động chiến đấu.

Vậy nguồn hỏa lực chính của các phân đội thâm nhập của RFAF hiện nay là gì? Đó là súng phóng lựu tự động, tên lửa chống tăng, súng máy hạng nặng và nhiều loại máy bay không người lái (UAV) tự sát (FPV) hoặc mang thả chất nổ. Súng cối cũng có, nhưng súng cối 82mm hiện tại là một vấn đề thực sự.

Vậy “vấn đề thực sự” của khẩu súng cối có cỡ nòng 82 mm nằm ở đâu? Trước hết súng cối 82 mm là vũ khí tập thể, được trang bị cho cấp tiểu đoàn hoặc đại đội bộ binh. Điểm yếu đầu tiên của nó là thực hiện chiến thuật “bắn và chạy” của loại cối này rất hạn chế.

Súng cối 82mm của Nga nặng hơn 70 kg, chưa kể đạn. Một khẩu đội ít nhất là ba người, mới có thể sử dụng được khẩu súng cối này (biên chế chính của khẩu đội súng cối 82 mm của RFAF, gồm khẩu đội trưởng và 4 pháo thủ).

Nhưng ở chiến trường Nga-Ukraine, với việc UAV FPV bay khắp nơi, nên pháo thủ cần phải có khả năng thu pháo và cơ động ngay sau khi nã đạn vào mục tiêu. Vậy làm sao có thể mang theo một vũ khí nặng hơn 70 kg để cơ động nhanh?

Hơn nữa, tầm bắn hiệu quả của khẩu cối 82 chỉ dưới 3 km, buộc khẩu đội phải tiếp cận tiền tuyến, thậm chí vào cả “vùng xám (khu vực giao tranh)”. Chẳng phải đây là trao cơ hội cho UAV FPV và pháo binh Ukraine? Việc thay đổi trận địa bắn đòi hỏi nhiều lần di chuyển qua lại để di chuyển pháo, và những người điều khiển UAV sẽ không quá khó khăn để phát hiện ra họ.

Điểm yếu tiếp theo là tiếng nổ đầu nòng của cối 82 mm khá lớn, có thể nghe thấy từ cách xa hàng km, ngay lập tức báo động cho đối phương về đòn tấn công. Mặc dù đạn cối 82 mm có sức công phá mạnh, với một viên đạn tương đương với năm hoặc sáu quả lựu đạn F-1 phát nổ cùng lúc, nhưng tiếng nổ đầu nòng và chớp lửa đầu nòng mà nó tạo ra, cũng là dấu hiệu lộ mục tiêu rất lớn.

Ngay từ đầu cuộc xung đột Nga-Ukraine, binh lính Nga đã kêu ca về việc thiếu súng cối tự hành. Giờ đây, ngay cả với mẫu súng cối mới 2B24 82mm, hay súng cối tự hành 2S41 Drok 82mm (vốn được trang bị cho lực lượng nhảy dù), nhưng bộ binh Nga vẫn ngại sử dụng.

Những khẩu súng cối này dễ dàng bị phát hiện từ trên không và dễ bị hỏa lực phản pháo và máy bay không người lái tiêu diệt, nên vẫn chưa được bộ binh Nga ở chiến trường chấp nhận. Câu hỏi đặt ra là tại sao quân đội Nga không trang bị súng cối 60mm, giống như quân đội các nước khác?

Câu trả lời trước hết việc này xuất phát từ lý luận tác chiến của quân đội Liên Xô (trước kia) và Nga (hiện nay), khi họ xây dựng các kịch bản tiến công và phòng ngự dựa trên hỏa lực pháo binh tầm xa, không quân và xe tăng. Các hoạt động chiến đấu cận chiến chỉ dùng cho lực lượng đặc nhiệm, khi chiến đấu trong thành phố.

Do vậy những mẫu súng cối mini như súng cối 60 mm đã bị loại khỏi biên chế quân đội Liên Xô từ đầu thập niên 1970, khi học thuyết chiến tranh cơ giới của họ chiếm ưu thế.

Trên thực tế, nhu cầu chiến trường là hiển nhiên. Trước yêu cầu của chiến trường, giới quân sự nhắc tới mẫu súng cối “giảm thanh” 2B25 Seagull của Nga. Đây chắc chắn là một vũ khí tốt, chỉ nặng 13 kg và có tiếng nổ đầu nòng rất nhỏ. 2B25 được phát triển đặc biệt để chống lại súng cối LMP-2017 60mm của Ba Lan.

Tuy nhiên, đạn của 2B25 được thiết kế đặc biệt và không thể sử dụng với đạn súng cối 82mm tiêu chuẩn, vì vậy nó hiếm khi được nhìn thấy trên tiền tuyến. Hơn nữa, tầm bắn của nó chỉ 1.200 mét, tương đương với súng cối Ba Lan, trong khi LMP-2017 có trọng lượng chỉ bằng một nửa và có thể được sử dụng chỉ bởi một người.

Tiếp đến bộ binh Nga cần một loại súng cối siêu nhẹ, giống như mẫu LMP-2017 của Ba Lan, có thể bắn gần như bằng tay mà không cần chân súng, thời gian thao tác bắn rất nhanh. Ưu điểm nữa là tiếng nổ đầu nòng nhỏ và có thể bắn gần mục tiêu, mà không để lộ tiếng nổ và chớp lửa đầu nòng, cũng như tiếng đạn bay.

Tuy uy lực của một phát bắn từ cối LMP-2017 nhỏ, nhưng bù lại có thể bù đắp bằng yếu tố bất ngờ, tốc độ bắn nhanh nên lượng đạn trút vào khu vực mục tiêu lớn. Quan trọng nhất là khi gặp drone đang đuổi theo, người lính có thể thu súng và cơ động, mà không cần lo lắng về việc vứt bỏ vũ khí.

Đối với ngành công nghiệp quốc phòng Nga, việc sản xuất súng cối 60mm lẽ ra không phải là một nhiệm vụ khó khăn. Tuy nhiên, vì lý do nào đó, họ vẫn chưa được triển khai với số lượng lớn quân đội. Trong khi đó LMP-2017 của Ba Lan viện trợ cho quân đội Ukraine, sử dụng lại khá tốt.

Điều quân đội Nga cần nhất lúc này là loại hỏa lực hỗ trợ nhẹ, linh hoạt và có thể “ẩn mình” này, đặc biệt là trên chiến trường nơi UAV xuất hiện khắp nơi. Vũ khí hạng nặng dễ bị phát hiện và phá hủy, và các đơn vị nhỏ cần được hỗ trợ hỏa lực kịp thời. Súng cối 60mm được thiết kế riêng cho tình huống này.

Nhưng thực tế là lính Nga vẫn kêu ca khi phải mang theo khẩu súng cối 82mm với trọng lượng hơn 70 kg cùng đạn cối trên tiền tuyến. Mỗi khi cơ động đều vất vả như “chuyển nhà”, và họ có thể bị UAV của Ukraine phát hiện bất cứ lúc nào.

Vậy nên, đôi khi vấn đề không phải do binh lính thiếu nỗ lực, mà là do vũ khí không đáp ứng được yêu cầu chiến thuật. Xung đột Nga-Ukraine một lần nữa chứng minh một điều: trên chiến trường hiện đại, sự nhẹ nhàng, linh hoạt và khả năng ẩn nấp quan trọng hơn hỏa lực thuần túy. Nếu các tổ hợp công nghiệp quốc phòng Nga hiểu được điều này sớm hơn, có lẽ những người lính ở tiền tuyến đã ít phải vất vả hơn và có cơ hội chiến thắng cao hơn. (nguồn ảnh Military Review, TASS, Kyiv Post).