Vì sao người Việt có câu “Say quắc cần câu"?

(Kiến Thức) - Theo các nhà nghiên cứu văn hóa, từ “say quắc cần câu” gắn với nền văn hóa sông nước, đời sống sinh hoạt gắn với con thuyền, làng chài, cần câu.

Ám chỉ một người say rượu đến mức không còn biết gì nữa, người ta thường nói “say quắc cần câu”. Theo các nhà nghiên cứu văn hóa, từ “say quắc cần câu” gắn với nền văn hóa sông nước, đời sống sinh hoạt gắn với con thuyền, làng chài, cần câu. Ví von đó xuất phát từ chính đời sống thường nhật của con người.
Đời sống thuyền chài
Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Hùng Vĩ, Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội lý giải, câu là cong, quắc là cái cuốc lớn có dáng chữ câu. Chữ Hán là Câu quắc túy và cũng nói đảo là quắc câu túy. Khi vào thành ngữ Việt, người ta thuận mồm thêm chữ “cần” thành 4 chữ cho nhịp nhàng. Tuy nhiên, đó là cách nói phổ biến của người miền Nam, còn người miền Bắc hay nói “say còng văn queo”.
Ở Việt Nam, do nhiều lý do khác nhau, sông nước và những thực thể liên quan đến sông nước có một vai trò to lớn trong đời sống tinh thần và vật chất của con người. Theo lối tư duy đó, thực thể nào gần gũi nhất thì xuất hiện trước nhất, nhiều nhất và có tầm tác động lớn nhất. Với tư cách là chủ thể tri nhận, con người thường phóng chiếu hình bóng của chính mình lên môi trường sông nước, hẳn nhiên, qua tương tác, môi trường ấy không thể không ngược chiếu lại chính con người và xã hội. 
PGS.TS Trịnh Sâm, Đại học Sư phạm TPHCM cho rằng, người xưa thường sử dụng những hình ảnh ẩn dụ trong đời sống, người uống rượu nhiều thì được ví “uống như hũ chìm”. Người miền Nam gắn với chiếc xuồng ba lá, người miền Bắc gắn với ghe chài. Trong phân biệt về tửu lượng, người miền Nam được cho là có tửu lượng thấp, uống ít, nhanh say nhưng cũng nhanh tỉnh. Người sống ở ghe chài có tửu lượng cao, uống được nhiều, lâu say, lâu tỉnh thì rõ ràng để hiểu được chúng, quả không đơn giản. Về văn hóa rượu, ở đây còn có khá nhiều ý niệm cũng được xây dựng dựa vào ghe chài tức ghe bóc chài, không phải là ghe đánh cá, mà là ghe chở lúa, ghe ăn lúa, còn bạn ghe chài không phải là bạn trên thuyền đánh cá mà bạn chài trên ghe chở lúa, sông nước: Xuồng chìm tại bến, quắc cần câu, uống tới bến... 
Ảnh minh họa.
 Ảnh minh họa.
Cần câu trĩu nặng
Cách lý giải đơn giản nhất theo nghĩa đen của “quắc cần câu” là việc mô tả hình dáng người say giống như chiếc cần câu bị cong khi kéo câu. Cái dáng liêu xiêu, không vững vàng đó phù hợp với hình ảnh ví von, nên được mặc nhiên chấp nhận. Sự dễ hiểu và gần gũi của hình ảnh đó khiến nó trở thành một phần của đời sống, mặc nhiên được hiểu là như thế, dù việc bóc tách từng lớp ngữ nghĩa, có lẽ ít người làm.
GS Ngô Đức Thịnh, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Bảo tồn văn hóa tín ngưỡng dân gian Việt Nam nhìn nhận, đúng là văn hóa tín ngưỡng dân gian Việt Nam gắn liền với đời sống sông nước với những “cái” cùng “con”. Mỗi sự vật sự việc đều được gắn với những hình ảnh thân thuộc ấy để dễ nhớ. Hình ảnh một người say liêu xiêu, lảo đảo, không còn điều khiển được hành vi nữa được ví như một chiếc cần câu cong vút khi kéo câu, đầy mong manh, lung lay, cảm giác chỉ cần chạm nhẽ là có thể gãy, đổ. 
Thông qua những trải nghiệm có tính tương tác, con người thường dùng những hiểu biết, những kinh nghiệm từ chính bản thân mình, từ người khác, từ môi trường xung quanh, bằng con đường dùng một miền ý niệm, thường có tính vật chất, cụ thể, dễ quan sát và có tầm hiểu biết nhiều hơn để nhận thức một miền ý miền niệm khác, thường là phi vật chất, trừu tượng, khó quan sát và hiểu biết ít hơn. “Quắc cần câu” chỉ trạng thái của một ngưới say, dường như cũng gắn với đặc tính sông nước ấy. 
Biến tấu khó lý giải
TS Vũ Đức Trung, nguyên giảng viên khoa Văn hóa Dân gian, trường Đại học Văn hóa cho biết, thực tế có một số thành ngữ bị biến tấu để nói cho vần điệu, so sánh cho có hình ảnh chứ nếu mổ xẻ rõ ràng nó là cái gì thì rất khó, kiểu như “nghèo rớt mồng tơi”, “mê tít thò lò”, “say quắc cần câu”... Sự phối kết hợp giữa các từ ngữ không liên quan gì về mặt ngữ nghĩa tạo ra sự khó hiểu nếu bóc tách từng thành tố. Chúng ra đời trên cơ sở của những từ tố gồm có hai từ đơn tiết (nghèo rớt, say quắc, mê tít), mà thành tố thứ hai (rớt quắc, tít) có tác dụng miêu tả và/hoặc nêu lên mức độ tối cao của thành tố thứ nhất (nghèo, say, mê). Để tạo ra sắc thái hài hước, người ta đã ghép vào yếu tố thứ hai một thành phần thêm nghĩa (mồng tơi, cần câu, thò lò) mà thành phần này chỉ thích hợp về ngữ nghĩa với thành tố thứ hai của từ tổ cơ sở chứ không thích hợp với thành tố thứ nhất của từ tổ đó và/hoặc với toàn bộ từ tổ. 
Do phương thức cấu tạo đặc biệt đó mà những thành ngữ đang xét vô hình trung có thể được xem như là những đơn vị gồm có hai từ ghép vào nhau (nghèo rớt mồng tơi = nghèo rớt + rớt mồng tơi; say quắc cần câu = say quắc + quắc cần câu;  Trong “say quắc cần câu”, chẳng hạn, thì “quắc” vừa miêu tả vừa nêu lên mức độ tối cao của “say”; “cần câu” thì chỉ có quan hệ ngữ nghĩa tự nhiên và hợp lý với “quắc” nhưng lại không có quan hệ ngữ nghĩa tự nhiên và hợp lý với “say”. “Say quắc” là say đến quằn người lại còn “quắc cần câu” là cong như cái cần câu bị cá đớp mồi mà kéo xuống. Xét riêng thì hai từ tổ trên đây vẫn hợp lý về ngữ nghĩa nhưng phối hợp chúng lại mà nói “say quắc cần câu” thì rõ ràng là đã làm phát sinh vấn đề về mặt luận lý và người ta cứ phải đặt câu hỏi không bao giờ trả lời được: Say quắc cần câu là say như thế nào?
Thế nên, với những phương thức biểu đạt không dựa trên sự logic rõ nghĩa mà chỉ là hình thức thêm bớt cho có vần có điệu, nếu đi mổ xẻ từng câu chữ xem nghĩa gốc thực sự của nó là như thế nào, dường như là không tưởng. Có chăng chỉ là những suy luận dựa trên cơ sở dữ liệu sẵn có để lý giải theo suy nghĩ chủ quan mà không thể chắc chắn có một kết quả đúng được.
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia định nghĩa: Say rượu (còn gọi là xỉn) là một trạng thái sinh lý gây ra bởi việc tiêu thụ thức uống có cồn như rượu, bia... có thể dẫn tới ngộ độc do sử dụng quá mức. Vấn đề phát sinh khi chất cồn trong rượu, bia tích tụ trong máu nhanh hơn khả năng chuyển hóa của gan. Trong trạng thái say rượu, tâm trí và cơ thể trở nên suy yếu. Triệu chứng phổ biến thường gặp ở người trong trạng thái say rượu có thể bao gồm nói líu lưỡi, nói nhiều, mất thăng bằng, phối hợp cơ thể kém, mặt đỏ, nôn mửa. Người say rượu nặng, còn gọi là say "quắc cần câu", thường có biểu hiện thay đổi các hành vi thông thường của họ.

Giải mã thú vị về “thần chú” của người Việt xưa

(Kiến Thức) - Thời trước, hễ trước khi làm việc gì, người Việt có thói quen đọc những câu “thần chú”, với niềm tin rằng đọc như vậy sẽ được hiệu quả.

Giai ma thu vi ve
Trong sách "Việt Nam phong tục" (xuất bản lần đầu từ năm 1915), học giả Phan Kế Bính đã lược ra mười mấy loại thần chú như vậy và cũng chỉ ra sự ngây ngô của nó. Sau đây là một số thần chú, phương thuật. Chẳng hạn khi bão to, nhà lung lay mạnh thì lấy đôi đũa cả mà chống vào hai chân cột cái thì nhà không đổ được. Các ảnh sau chỉ có tính chất minh họa.
Giai ma thu vi ve
 Hễ mắt có bụi, người ta vạch mắt đọc câu: “Cái gẩy ở trên trời, rơi xuống đất, mất cái gẩy” thì tự nhiên sẽ khỏi.
Giai ma thu vi ve
 Đàn bà sinh sản khó khăn, chồng lấy cái nồi đất đập vỡ toang ra cho chóng sinh. Hoặc là chồng cởi dây lưng trèo ngồi trên nóc nhà, hoặc bắt người đàn bà cắt cái chạc trâu thì chóng sinh. Khi đẻ rồi mà bất hạnh đứa trẻ không khóc được thì gõ mảnh sành rầm lên một lúc, tự nhiên nó tỉnh mà khóc được.
Giai ma thu vi ve
 Buổi tối sợ kẻ trộm vào nhà thì dựng ngược một cái chổi ở cửa ra vào và đọc một câu thần chú: “Chém đầu thằng Trích, ních đầu thằng Cược, treo ngược cành đa, chém cha thằng kẻ trộm” như thế dẫu có kẻ trộm cũng rợn mà không dám vào nhà.
Giai ma thu vi ve
 Ai đi đêm tối sợ gặp phải rắn, cọp hoặc những điều sợ hãi thì lấy ngón tay cái bên tay trái ấn vào cung bản mệnh (tuổi tý ấn cung tý) và lúc mới bước chân ra đọc câu thần chú: “Tứ tung ngũ hoành, ngô kim xuất hành. Vũ vương vệ đạo, Si vưu tỵ binh, hổ lương bất đắc động, xà hủy bất đắc kinh, ngô phụng Thái thượng Lão quân mệnh, cấp cấp như luật lệnh”.
Giai ma thu vi ve
 Đêm nằm mộng thấy sự gì sợ hãi, tỉnh dậy đừng nên nói, uống một ngụm nước, ngoảnh mặt về phía Đông mà nhổ thì mộng ác cũng hóa mộng lành.
Giai ma thu vi ve
 Ngoài các việc trồng cây nêu, rắc vôi bột, treo cành đa, lá dứa ngày Tết hoặc dán bùa yểm bùa khi có người chết..., trong cả năm muốn cho bình yên thì ngoài cổng dựng cái cột đá khắc năm chữ “Khương Thái công tại thử”. Hoặc muốn giữ cho tài thần trong nhà thịnh vượng thì xây một con chó đá ngoài cổng.
Giai ma thu vi ve
Cây trồng lâu chưa có quả, muốn cho có quả thì chờ đến ngày mồng 5 tháng 5 âm lịch, một người trèo lên cây, một người cầm vồ ở dưới gõ vào gốc cây 3 cái và hỏi “đã chịu nảy quả chưa”, người trên cây nói “chịu” thì sang năm tự khắc có quả. 
Giai ma thu vi ve
 Hễ lợn nuôi trong chuồng chê cám không ăn thì viết năm chữ “Khương thái công tại thử” vào một mảnh giấy vàng dán lên chuồng lợn thì lợn khỏi bệnh. Lợn đi không về thì lấy cái đũa cả cắm đằng sau ông táo, hoặc úp cái bồn cho lợn ăn xuống đất và lấy một cành khế cắm vào cửa chuồng thì lợn tự nhiên về.
Giai ma thu vi ve
 Có cú kêu bên cạnh nhà, lấy chiếc đũa cả cắm xuống đằng sau ông táo, hoặc lấy nắm gạo muối, hoặc hòn đất trong bếp mà ném đuổi đi thì tự nhiên nó phải chạy.
Giai ma thu vi ve
 Khi có sâu hoàng trùng (châu chấu) ăn hại lúa, làm lễ cúng tiễn cho nó đi, rồi cắm một lá cờ giấy ở đầu địa giới thì nó không dám vào nữa.
Giai ma thu vi ve
 Trong nhà muốn cho ít kiến thì ngày mồng Một Tết bắt kiến mà đốt đi thì cả năm không có kiến nữa. Muốn trừ rệp thì bắt một hai con bỏ vào trong áo quan người chết, tự nhiên rệp phải hết. Muốn cho cây cối không có sâu thì tối 30 tết cầm bó đuốc soi vào các cây cối sẽ được.
Giai ma thu vi ve
 Phan Kế Bính nhận xét rằng: “Không biết các phương thuật tự đâu đặt ra, ngộ nghĩnh quá! Mà ta nhiều người cũng tin... có dễ thuật chữa bệnh tài hơn thuốc đốc tờ, thuật giục cây ra quả tài hơn phép xiếc? Nếu vậy thì chẳng hóa nước ta tài lắm ru, sao mà lại hóa ra hèn hơn các nước vậy?

Vì sao người Việt có thói quen “cứ đi lễ là cầu xin thánh thần“?

(Kiến Thức) - Việc đi lễ chùa đầu năm là một tập quán văn hóa tốt đẹp của người Việt. Tiếc rằng, trong thời buổi kinh tế thị trường, tập quán này đã có nhiều biến tướng tiêu cực, thể hiện rõ nét qua việc nhiều người trở nên cuồng tín, dựa dẫm vào thánh thần đến mê muội.

Trong buổi xuân mới, bên cạnh niềm vui và hi vọng, nhiều người trong chúng ta không khỏi chạnh lòng khi chứng kiến những cảnh tượng chướng tai gai mắt khi đi lễ chùa đầu năm. Đó là cảnh chen lấn xô đẩy, đốt vàng mã vô tội vạ, văng tiền lẻ khắp nơi... Và đặc biệt là những lời cầu xin thánh thần thể hiện cái tâm trần tục, không phù hợp với không gian tâm linh của những chốn thiêng liêng.