Tự làm kính thiên văn

(Kiến Thức) - Ở Việt Nam, phong trào tự làm kính thiên văn phát triển trong khoảng 5 - 7 năm trở lại đây.

Hỏi: Tôi muốn biết hiện nay có những loại kính thiên văn nào. Ở nước ta, các bạn trẻ đang có phong trào làm kính thiên văn, vậy chúng ta làm được những kính thiên văn cỡ nào? - Nguyễn Như Hà (Hà Nội).
 
Ông Nguyễn Đức Phường, chuyên gia nghiên cứu về thiên văn - vũ trụ, Đại học Quốc gia Hà Nội: Hiện nay, có nhiều loại kính thiên văn nhưng chủ yếu có 3 loại chính là kính thiên văn khúc xạ, kính thiên văn phản xạ và kính thiên văn khúc phản xạ, trong đó  kính thiên văn phản xạ là được sử dụng nhiều nhất. 
Lý do là vì kính thiên văn khúc xạ sử dụng thấu kính hội tụ làm vật kính nên khó chế tạo vật kính cỡ lớn, trong khi đó kính thiên văn phản xạ sử dụng gương làm vật kính nên dễ chế tạo vật kính có kích thước lớn (vật kính càng lớn thì khả năng quan sát càng rộng). 
Hiện nay, trên thế giới có những kính thiên văn cỡ lớn có đường kính tới 8 - 10m. Ở Việt Nam, phong trào tự làm kính thiên văn phát triển trong khoảng 5 - 7 năm trở lại đây. Hiện các kính thiên văn do các bạn trẻ yêu thiên văn ở Việt Nam thiết kế có đường kính khoảng 20 - 30cm.

Những loài ác mộng từ tiền sử sống đến ngày nay (2)

(Kiến Thức) - Chuột chù răng khía có thể đưa chất độc qua răng tương tự như rắn, hầu như không thay đổi trong 76 triệu năm qua.

Cá vây tay. Có nguồn gốc từ các bờ biển của Ấn Độ Dương và Indonesia, cá vây tay là một trong hai loài còn sinh tồn trong chi Latimeria. Nó đã được coi là tuyệt chủng cho đến khi được tái phát hiện vào năm 1938. Người ta tin rằng cá vây tay phát triển thành hình dáng hiện tại từ khoảng 400 triệu năm trước.
Cá vây tay. Có nguồn gốc từ các bờ biển của Ấn Độ Dương và Indonesia, cá vây tay là một trong hai loài còn sinh tồn trong chi Latimeria. Nó đã được coi là tuyệt chủng cho đến khi được tái phát hiện vào năm 1938. Người ta tin rằng cá vây tay phát triển thành hình dáng hiện tại từ khoảng 400 triệu năm trước. 

Cá đuối gai độc nước ngọt khổng lồ là một trong những loài cá nước ngọt lớn nhất trên thế giới. Nó được cho là đã phát triển hình dáng hiện tại từ khoảng 100 triệu năm trước.
Cá đuối gai độc nước ngọt khổng lồ là một trong những loài cá nước ngọt lớn nhất trên thế giới. Nó được cho là đã phát triển hình dáng hiện tại từ khoảng 100 triệu năm trước.  

Ốc anh vũ sống ở sườn núi sâu của các rạn san hô ở Ấn Độ Dương, ở phía tây và trung tâm Thái Bình Dương. Hồ sơ hóa thạch cho thấy sinh vật này đã sống trên trái đất từ khoảng 500 triệu năm trước.
Ốc anh vũ sống ở sườn núi sâu của các rạn san hô ở Ấn Độ Dương, ở phía tây và trung tâm Thái Bình Dương. Hồ sơ hóa thạch cho thấy sinh vật này đã sống trên trái đất từ khoảng 500 triệu năm trước.  

Con sứa có thể được tìm thấy ở tất cả các đại dương, từ bề mặt đến đáy biển sâu. Nó được cho là đã xuất hiện từ khoảng 700 triệu năm trước.
Con sứa có thể được tìm thấy ở tất cả các đại dương, từ bề mặt đến đáy biển sâu. Nó được cho là đã xuất hiện từ khoảng 700 triệu năm trước. 

Thú mỏ vịt được coi là một trong những loài động vật kỳ lạ nhất trên thế giới. Sự xuất hiện của loài này được cho là có nguồn gốc từ thời kỳ tiền sử. Hóa thạch lâu đời nhất của loài thú mỏ vịt hiện đại là khoảng 100.000 năm tuổi, tổ tiên của nó chiếm các siêu lục địa Gondwana từ khoảng 170 triệu năm trước.
Thú mỏ vịt được coi là một trong những loài động vật kỳ lạ nhất trên thế giới. Sự xuất hiện của loài này được cho là có nguồn gốc từ thời kỳ tiền sử. Hóa thạch lâu đời nhất của loài thú mỏ vịt hiện đại là khoảng 100.000 năm tuổi, tổ tiên của nó chiếm các siêu lục địa Gondwana từ khoảng 170 triệu năm trước. 

Chuột chù voi nhỏ là động vật có vú bốn chân giống như loài gặm nhấm hoặc thú có túi ôpôt. Theo những ghi chép hóa thạch, tổ tiên của sinh vật kỳ lạ này sống trong kỷ Paleogen (66-23 triệu năm trước).
Chuột chù voi nhỏ là động vật có vú bốn chân giống như loài gặm nhấm hoặc thú có túi ôpôt. Theo những ghi chép hóa thạch, tổ tiên của sinh vật kỳ lạ này sống trong kỷ Paleogen (66-23 triệu năm trước). 

Con bồ nông là một trong những hóa thạch sống thay đổi ít nhất kể từ thời kỳ tiền sử. Hồ sơ hóa thạch cho thấy bồ nông đã tồn tại ít nhất là 30 triệu năm.
Con bồ nông là một trong những hóa thạch sống thay đổi ít nhất kể từ thời kỳ tiền sử. Hồ sơ hóa thạch cho thấy bồ nông đã tồn tại ít nhất là 30 triệu năm.  

Cá sấu hoả tiễn hay còn gọi là cá nhái sấu (aligator gar) thường được gọi là "cá nguyên thủy" hay "hóa thạch sống" vì còn giữ một số đặc điểm hình thái của tổ tiên đời đầu như lớp vỏ xoắn ốc hay khả năng hít thở cả trên không và dưới nước. Hồ sơ hóa thạch cho thấy dấu vết sự tồn tại của cá nhái sấu là khoảng hơn 100 triệu năm trước.
Cá sấu hoả tiễn hay còn gọi là cá nhái sấu (aligator gar) thường được gọi là "cá nguyên thủy" hay "hóa thạch sống" vì còn giữ một số đặc điểm hình thái của tổ tiên đời đầu như lớp vỏ xoắn ốc hay khả năng hít thở cả trên không và dưới nước. Hồ sơ hóa thạch cho thấy dấu vết sự tồn tại của cá nhái sấu là khoảng hơn 100 triệu năm trước. 

Bọt biển là một ngành động vật đa bào nguyên thuỷ. Các bằng chứng cổ xưa nhất cho thấy bọt biển được phát hiện từ cách đây 760 triệu năm tuổi.
Bọt biển là một ngành động vật đa bào nguyên thuỷ. Các bằng chứng cổ xưa nhất cho thấy bọt biển được phát hiện từ cách đây 760 triệu năm tuổi. 

Chuột chù răng khía là loài rất nguy hiểm, là loài động vật có vú duy nhất có thể đưa chất độc qua răng tương tự như rắn. Nó là loài đặc hữu của một số quốc gia vùng Caribbean, sinh vật nhỏ bé này thường được gọi là một hóa thạch sống bởi vì nó hầu như không thay đổi trong 76 triệu năm qua, vẫn giữ các đặc điểm của tổ tiên thời tiền sử của chúng.
Chuột chù răng khía là loài rất nguy hiểm, là loài động vật có vú duy nhất có thể đưa chất độc qua răng tương tự như rắn. Nó là loài đặc hữu của một số quốc gia vùng Caribbean, sinh vật nhỏ bé này thường được gọi là một hóa thạch sống bởi vì nó hầu như không thay đổi trong 76 triệu năm qua, vẫn giữ các đặc điểm của tổ tiên thời tiền sử của chúng. 

Cá sấu gây kinh hãi cho nhiều người bởi hàm răng sắc nhọn, cùng khả năng săn mồi đáng sợ. Loài này xuất hiện khoảng 250 triệu năm trước trong giai đoạn kỷ Trias sớm. Loài này ở thời hiện đại vẫn có nhiều đặc điểm hình thái giống với tổ tiên cổ xưa của chúng.
Cá sấu gây kinh hãi cho nhiều người bởi hàm răng sắc nhọn, cùng khả năng săn mồi đáng sợ. Loài này xuất hiện khoảng 250 triệu năm trước trong giai đoạn kỷ Trias sớm. Loài này ở thời hiện đại vẫn có nhiều đặc điểm hình thái giống với tổ tiên cổ xưa của chúng. 

Cá voi đầu bò lùn từng được cho là đã tuyệt chủng cho đến năm 2012 thì được tái phát hiện. Loài này được cho là hậu duệ của Cetotheriidae, một gia đình cá voi tồn tại từ thời kỳ cuối kỷ Oligocence đến kỷ Pleistocene (28-1 triệu năm trước).
Cá voi đầu bò lùn từng được cho là đã tuyệt chủng cho đến năm 2012 thì được tái phát hiện. Loài này được cho là hậu duệ của Cetotheriidae, một gia đình cá voi tồn tại từ thời kỳ cuối kỷ Oligocence đến kỷ Pleistocene (28-1 triệu năm trước). 

Cóc lưỡi tròn Israel là một loài lưỡng cư được cho là đã tuyệt chủng cho đến khi mẫu con cái được phát hiện ngày 16/11/2011. Nó là loài đặc hữu đầm lầy hồ Hula ở Israel.
Cóc lưỡi tròn Israel là một loài lưỡng cư được cho là đã tuyệt chủng cho đến khi mẫu con cái được phát hiện ngày 16/11/2011. Nó là loài đặc hữu đầm lầy hồ Hula ở Israel.

Những phát hiện gây sửng sốt về loài sóc

(Kiến Thức) - Bạn sẽ cảm thấy ngạc nhiên thú vị khi biết rằng loài sóc khôn lanh có nhiều kỹ năng bất ngờ hơn bạn tưởng.

Sóc sống ở hầu khắp nơi trên thế giới. Có khoảng 285 loài sóc, sống rải rác ở khắp nơi trên thế giới, từ loài sóc nhỏ ở Tây Phi cho đến loài sóc đất Marmot khổng lồ ở vùng đất trũng phía Bắc Kazactan.
 Sóc sống ở hầu khắp nơi trên thế giới. Có khoảng 285 loài sóc, sống rải rác ở khắp nơi trên thế giới, từ loài sóc nhỏ ở Tây Phi cho đến loài sóc đất Marmot khổng lồ ở vùng đất trũng phía Bắc Kazactan.
Sóc có thể giúp cây nhân giống. Một con sóc xám có thể tạo ra hàng ngàn nơi cất giấu hạt sồi sau mỗi mùa. Điều này có thể được xem là sự phân tán hạt và sẽ tạo ra được nhiều cây con khác.
 Sóc có thể giúp cây nhân giống. Một con sóc xám có thể tạo ra hàng ngàn nơi cất giấu hạt sồi sau mỗi mùa. Điều này có thể được xem là sự phân tán hạt và sẽ tạo ra được nhiều cây con khác.
Sóc có thể làm hại cây. Trông một số trường hợp, sóc và cây ít có sự hài hòa. Sóc đỏ Bắc Mỹ và sóc Douglas là loài săn hạt của các cây hạt trần. Chúng có thể ăn ngay những hạt còn non. Điều này rõ ràng là tốt cho sóc để tồn tại trong mùa đông nhưng lại đánh mất cơ hội sinh sản của các cây hạt trần.
 Sóc có thể làm hại cây. Trông một số trường hợp, sóc và cây ít có sự hài hòa. Sóc đỏ Bắc Mỹ và sóc Douglas là loài săn hạt của các cây hạt trần. Chúng có thể ăn ngay những hạt còn non. Điều này rõ ràng là tốt cho sóc để tồn tại trong mùa đông nhưng lại đánh mất cơ hội sinh sản của các cây hạt trần.
Sóc có thể phân biệt được thức ăn nào bảo quản được lâu. Sóc xám có thể nhận biết sự khác biệt về tính chất giữa sồi trắng và sồi đỏ.
Sóc có thể phân biệt được thức ăn nào bảo quản được lâu. Sóc xám có thể nhận biết sự khác biệt về tính chất giữa sồi trắng và sồi đỏ. 
Sồi trắng thường nảy mầm nhanh hơn, gần như ngay sau khi rơi xuống đất, nên sóc không để dành mà ăn ngay. Ngược lại, sồi đỏ thường nảy mầm vào mùa xuân nên sóc cất giữ để làm thức ăn trong mùa đông.
 Sồi trắng thường nảy mầm nhanh hơn, gần như ngay sau khi rơi xuống đất, nên sóc không để dành mà ăn ngay. Ngược lại, sồi đỏ thường nảy mầm vào mùa xuân nên sóc cất giữ để làm thức ăn trong mùa đông. 
Sóc biết cách làm món nấm khô. Các loài sóc đỏ biết cách treo những cây nấm lên cành cây để cho nấm khô. Bằng cách này, chúng có thể giữ được nấm suốt cả mùa đông để ăn dần.
Sóc biết cách làm món nấm khô. Các loài sóc đỏ biết cách treo những cây nấm lên cành cây để cho nấm khô. Bằng cách này, chúng có thể giữ được nấm suốt cả mùa đông để ăn dần.