Trước khi có oxy, các dạng sống đầu tiên trên Trái đất đã hít thở chất độc này

Chúng ta nợ các vi sinh vật cổ đại oxy của Trái đất vì chúng đã quang hợp và thải nó ra các đại dương trên thế giới.

Một trong những tổ chức tự nhiên thú vị nhất được các nhà khoa học nghiên cứu là thảm vi sinh vật, quần xã vi khuẩn lam (hay "tảo lam"). Những hệ sinh thái khép kín đầy hấp dẫn này có thể nhìn thấy bằng mắt thường và có thể được tìm thấy ở khắp mọi nơi: trong hồ và suối, trong đất, và thậm chí trong cả môi trường nhân tạo như rãnh nước và vòi uống nước.

Nếu cho đủ thời gian - giả sử từ 2 đến 3 nghìn năm - các thảm vi sinh vật sẽ hóa thạch từng lớp thành các lớp stromatolite cacbon hóa - hóa thạch lâu đời nhất của chúng ta. Và chúng đã làm điều này trong khoảng 3,7 tỷ năm.

Các nhà khoa học tin rằng những bộ phận quang hợp của vi sinh vật cổ đại này chịu trách nhiệm tạo ra oxy mà chúng ta hít thở ngày này. Trước khi chúng xuất hiện, bầu khí quyển của hành tinh này chỉ có khoảng 1% oxy. Vậy chúng đã thở bằng gì trong 1,5 tỷ năm đầu tiên, và làm thế nào chúng thực hiện quá trình quang hợp mà không có oxy?

Trong một nghiên cứu mới được công bố trên tạp chí Communications Earth & Environment, các nhà nghiên cứu do Pieter T. Visscher từ Đại học Connecticut (Mỹ) dẫn đầu đã đưa ra một câu trả lời thuyết phục cho câu hỏi trên.

Đó là việc các vi sinh vật ban đầu đã quang hợp từ thạch tín và thải ra oxy.

Truoc khi co oxy, cac dang song dau tien tren Trai dat da hit tho chat doc nay

Quá trình quang hợp chủ yếu cần ánh sáng mặt trời, nước và CO2. Trong quá trình này CO2 bị phân hủy thành carbon và oxy - cây sử dụng một phần oxy này và thải ra phần còn lại. Tuy nhiên, nếu không có phân tử oxy, mọi chuyển đã xảy ra như thế nào?

Ngày nay, có những thảm vi sinh vật được biết đến sống trong môi trường không có oxy, nhưng chúng không được cho là giống như tổ tiên để giải thích quá trình quang hợp cổ đại trong môi trường không có oxy.

Đã có một số phương án tạo oxy được đề xuất. Ví dụ, quá trình quang hợp có thể hoạt động với các phân tử sắt, nhưng bằng chứng ghi lại bằng hóa thạch không ủng hộ ý tưởng đó. Hydro và lưu huỳnh cũng đã được đề xuất, mặc dù bằng chứng cho chúng cũng còn thiếu. Sự chú ý bắt đầu chuyển sang asen (hay thạch tín), sau khi các thảm vi sinh vật hít thở bằng asen được phát hiện trong hai hồ siêu kiềm ở California, Searles Lake và Mono Lake.

Vào năm 2014, Visscher và các đồng nghiệp đã phát hiện ra dấu hiệu của quá trình quang hợp dựa trên asen, từ thảm vi sinh "arsenotrophic" nằm sâu trong mẫu hóa thạch ở Tây Úc.

Tuy nhiên, với địa chất luôn thay đổi của các hành tinh, hồ sơ hóa thạch cổ đại bị đứt gãy khiến cho việc nghiên cứu xác định về quá trình quang hợp của "arsenotrophic" cổ đại trở nên khó khăn. Hồ sơ hóa thạch không thể xác định được vai trò của asen mà nó tiết lộ, rằng liệu asen có tham gia vào quá trình quang hợp hay chỉ là một hóa chất độc hại tình cờ có mặt ở đó.

Nhưng vào năm ngoái, vi sinh vật hít thở từ asen đã được phát hiện ở Thái Bình Dương. Và một loại vi khuẩn lưu huỳnh, Ectothiorhodospira sp., cũng được phát hiện thời gian gần đây có khả năng chuyển hóa asen từ hợp chất arsenite ở Hồ Big Soda ở Nevada, Mỹ.

Truoc khi co oxy, cac dang song dau tien tren Trai dat da hit tho chat doc nay-Hinh-2

Khu vực phát hiện ra thảm vi sinh vật ở Bắc Chile.

Nội dung báo cáo nghiên cứu cho biết Visscher phát hiện ra một thảm vi sinh vật sống phát triển mạnh trong môi trường đầy asen ở Laguna La Brava trong sa mạc Atacama ở Chile.

"Chúng tôi bắt đầu làm việc ở Chile", Visscher chia sẻ, "nơi tôi tìm thấy một dòng sông màu đỏ như máu. Những trầm tích màu đỏ được tạo thành bởi vi khuẩn quang hợp anoxogenic. Nước cũng có hàm lượng asen rất cao. Nước chảy qua những thảm vi sinh vật chứa hydro sulfua có nguồn gốc từ núi lửa và nó chảy rất nhanh trên những thảm này. Hoàn toàn không có oxy."

Những thảm vi sinh vật này trước đây chưa được nghiên cứu và điều kiện chúng sống tương tự như những điều kiện của Trái đất sơ khai. Đó là trạng thái không có oxy vĩnh viễn ở độ cao lớn với nhiệt độ thay đổi khắc nghiệt và tiếp xúc nhiều với tia cực tím.

Những thảm vi sinh vật trên có phần giống với Ectothiorhodospira sp. ở Nevada, khi tạo ra các chất lắng đọng cacbonat, hình thành các đá thạch nhũ mới. Điều thú vị nhất là những chất lắng đọng đó chứa bằng chứng cho thấy chúng đang chuyển hóa asen. Các vùng nước chảy xiết xung quanh thảm cũng rất giàu hydro sunfua và asen.

"Tôi đã làm việc với thảm vi sinh trong khoảng 35 năm hoặc lâu hơn. Đây là hệ thống duy nhất trên Trái đất mà tôi có thể tìm thấy thảm vi sinh hoạt động hoàn toàn trong điều kiện thiếu oxy", Visscher nói.

Và một điều quan trọng là không phải Trái đất là nơi duy nhất có thể xảy ra điều này. Visscher lưu ý rằng thiết bị mà họ sử dụng để nghiên cứu các thảm vi sinh nói trên không khác gì hệ thống trên tàu thăm dò sao hỏa của Nasa.

"Khi tìm kiếm bằng chứng về sự sống trên sao Hỏa, họ thường xem xét sự tồn tại của sắt. Và có lẽ họ cũng nên xem xét thêm cả thạch tín nữa", nhà nghiên cứu này nói thêm.  

Nếu như nhân loại - Homo sapiens chưa từng tồn tại, Trái Đất sẽ ra sao?

Nhân loại dù chỉ mới xuất hiện khá ngắn khi so với lịch sử của Trái Đất, chúng ta đã gây ra những tác động vô cùng lớn đối với hành tinh xanh

Từ những tòa nhà chọc trời cao chót vót của các đô thị hiện đại đến các kim tự tháp và các công trình kiến trúc cổ khác do lịch sử để lại, chúng ta có thể thấy dấu vết về sự tồn tại trong quá khứ và hiện tại của con người trên toàn bộ Trái Đất ngày nay. Những cánh đồng ruộng bát ngát và những con đường nối dài tứ phía cũng ghi dấu vết hoạt động của con người. Nhưng nếu con người chưa từng tồn tại, thì thế giới sẽ ra sao?

Trevor Worthy, nhà cổ sinh vật học kiêm phó giáo sư tại Đại học Flinders, Australia cho biết: "Tôi nghĩ Trái Đất sẽ là nơi có thảm thực vật tươi tốt hơn, với số lượng lớn các loài động vật, và các loài động vật lớn sẽ rải dài khắp các lục địa, trừ Nam Cực".

Một thế giới không có con người hiện đại cũng có nghĩa là những họ hàng của loài người (Homo sapiens) đã tuyệt chủng, chẳng hạn như người Neanderthal, vẫn sẽ tồn tại. Và chúng, chắc chắn sẽ thay đổi cảnh quan của toàn bộ hành tinh.

Neu nhu nhan loai - Homo sapiens chua tung ton tai, Trai Dat se ra sao?

Ảnh minh họa.

Trái Đất sẽ trở nên hoang dã hơn

Con người đã định hình nên thế giới, nhưng chúng ta cũng đã khiến cho nhiều sinh vật phải chịu cái kết bi thảm, từ chim Dodo (Raphus cucullatus) đến hổ Tasmania (Thylacinus cynocephalus). Bằng cách săn bắt quá mức và phá hủy môi trường sống, chúng ta đã khiến những cuộc sống tươi đẹp này rơi vào cảnh tuyệt chủng.

Theo những ước tính thận trọng nhất, tốc độ tuyệt chủng của các sinh vật trên Trái Đất ngày nay cao gấp hơn 100 lần so với khi không có con người. Sự suy giảm tự nhiên do con người dẫn dắt cho thấy rằng không có chúng ta, Trái Đất sẽ là một nơi hoang vu và một số loài động vật khổng lồ sẽ không bị biến mất, chẳng hạn như chim Moa.

Worthy nói rằng đây là một loài chim giống đà điểu, có con cao tới 3,6 mét. Nó đã phát triển ở New Zealand hàng triệu năm, nhưng chỉ trong vòng 200 năm kể từ khi con người xâm chiếm vùng đất của chúng, tất cả 9 loài chim Moa, cũng như ít nhất 25 loài động vật có xương sống khác, đã biến mất khỏi hành tinh này mãi mãi, bao gồm cả đại bàng Hast (Hieraaetus moorei) chuyên ăn moa.

Đại bàng khổng lồ và đại bàng Huster cũng là những ví dụ gần đây về sự biến mất của các loài động vật lớn. Sự tuyệt chủng của chúng đều liên quan đến các hoạt động của con người, chẳng hạn như săn bắn không bền vững và đưa các loài xâm lấn vào môi trường sống của chúng.

Sự tồn tại của các loài động vật lớn là rất quan trọng để suy đoán về Trái Đất sẽ như thế nào nếu không có con người, bởi vì những con thú này có tác động cực kỳ quan trọng đến cảnh quan của Trái Đất.

Neu nhu nhan loai - Homo sapiens chua tung ton tai, Trai Dat se ra sao?-Hinh-2

Trái Đất sẽ giống như Serengeti

Sören Faurby, giảng viên cao cấp về động vật học tại Đại học Gothenburg, Thụy Điển, tin rằng con người đóng vai trò quan trọng nhất trong sự biến mất của nhiều loài động vật có vú lớn hàng nghìn năm trước. Ông đã dẫn đầu một nghiên cứu được công bố trên tạp chí Diversity and Distributions vào năm 2015, trong đó chỉ ra rằng nếu không có con người, Trái Đất sẽ phần lớn giống với Serengeti bây giờ, đây là một hệ sinh thái sôi động ở Châu Phi.

Nếu vậy, các loài động vật lớn được tìm thấy ở Serengeti ngày nay - bao gồm voi, tê giác và sư tử - cũng sẽ sống trên khắp Châu Âu. Ví dụ, không chỉ có mỗi loài sư tử Châu Phi như hiện tại, mà Trái Đất sẽ có cả sư tử hang động, một loài lớn hơn một chút đã từng sinh sống ở Châu Âu cho đến khoảng 12.000 năm trước. Theo Faurby, Châu Mỹ cũng sẽ là nơi sinh sống của các loài động vật khổng lồ là họ hàng của voi,gấu và cả họ hành của những loài thú có mai - Armadillo, chẳng hạn như Glyptodon, chúng to bằng một chiếc ô tô và là loài động vật có vú vô cùng độc đáo.

Sören Faurby cho rằng: "Trong một thế giới không có con người, các loài động vật có vú lớn sẽ đa dạng hơn, và nếu bạn nhìn thấy sự đa dạng hơn của các loài động vật có vú lớn, bạn cũng thấy được một môi trường sống thoáng đãng hơn".

Neu nhu nhan loai - Homo sapiens chua tung ton tai, Trai Dat se ra sao?-Hinh-3

Voi ma mút vẫn sẽ tồn tại

Động vật lớn như voi được gọi là megafauna. Trong thời kỳ băng hà cuối cùng của kỷ Pleistocen (2,6 triệu đến 11.700 năm trước), thế giới rất phong phú về các loài động vật hoang dã. Ví dụ, theo một nghiên cứu năm 2020 trong Kỷ yếu của Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia Hoa Kỳ, vào cuối kỷ băng hà cuối cùng, khoảng 38 loài động vật lớn ở Bắc Mỹ đã tuyệt chủng. Trong một thế kỷ qua, các nhà khoa học đã tranh cãi rằng liệu chính biến đổi khí hậu tự nhiên hay sự săn bắt quá mức của con người là nguyên nhân chính dẫn đến sự suy giảm số lượng của những loài động vật lớn này.

Một nghiên cứu được công bố trên tạp chí Nature vào năm 2021 kết luận rằng biến đổi khí hậu cuối cùng đã xóa sổ những con voi ma mút thực sự (Mammuthus primigenius) sống sót vào cuối kỷ Pleistocen, cũng như các loài động vật lớn khác sống ở Bắc Cực. Sự ấm lên đã khiến cho môi trường trở nên ẩm ướt hơn, và thảm thực vật chúng ăn không còn có thể tồn tại.

Tuy nhiên, con người đã săn voi ma mút. Không chỉ Faurby mà một số nhà khoa học khác cho rằng con người có thể là nhân tố chính dẫn đến sự tuyệt chủng của chúng, họ cũng tin rằng voi ma mút đã sống sót sau biến đổi khí hậu trước khi con người xuất hiện. Nếu con người không gây thêm áp lực lên chúng, chúng rất có thể tồn tại đến ngày này.

Neu nhu nhan loai - Homo sapiens chua tung ton tai, Trai Dat se ra sao?-Hinh-4

Christopher Doughty, phó giáo sư và nhà sinh thái học tại Đại học Bắc Arizona, đã mô phỏng cách các loài động vật lớn:)) kiếm ăn và đi vệ sinh để gieo hạt và chất dinh dưỡng. Công trình của ông cho thấy rằng do sự tuyệt chủng của các loài động vật lớn, việc vận chuyển các nguyên tố như phốt pho, canxi và magiê, những chất quan trọng đối với sự sống, đã bị giảm hơn 90%.

Dougherty đoán rằng nếu không có con người, các yếu tố tự nhiên sẽ được phân bổ đồng đều hơn trong toàn cảnh, đồng nghĩa với việc đất đai màu mỡ hơn và năng suất của hệ sinh thái cao hơn. Doherty nói: "Nếu các yếu tố trong hệ sinh thái bị phân mảnh nhiều hơn, thì năng suất sẽ bị phân mảnh hơn".

Dougherty nói rằng con người tập hợp các yếu tố lại với nhau thông qua nông nghiệp và thiết lập hàng rào. So với các hệ thống hoang dã, những khu vực này sẽ trở nên kém màu mỡ hơn theo thời gian.

Khí hậu cũng có thể khác nhau. Mặc dù rất khó để biết con người và megafauna đã ảnh hưởng như thế nào đến biến đổi khí hậu từ hàng nghìn năm trước, vì bằng chứng đã bị che khuất theo thời gian, nhưng việc đánh giá tác động của chúng ta đối với khí hậu Trái Đất ngày nay sẽ dễ dàng hơn nhiều. Do hiện tượng nóng lên toàn cầu gây ra bởi các hoạt động như đốt nhiên liệu hóa thạch, từ đầu thế kỷ 20, con người đã làm tăng nhiệt độ trung bình của Trái Đất khoảng 1 độ C. Vì vậy, không có chúng ta, Trái Đất ít nhất sẽ mát hơn.

Một nghiên cứu năm 2016 được công bố trên tạp chí Nature kết luận rằng sự ấm lên do con người tạo ra sẽ làm trì hoãn kỷ băng hà sắp tới ít nhất 100.000 năm. Tuy nhiên, ngay cả khi không có con người, kỷ băng hà sẽ không đến trong vòng 50.000 năm nữa, vì vậy nếu chúng ta biến mất, Trái Đất cũng khó có thể ở trong một kỷ băng hà khác.

Người Neanderthal có thể thay thế chúng ta?

Người hiện đại của chúng ta ngày nay (Homo sapiens) không phải lúc nào cũng là chủng tộc duy nhất trong cảnh quan này, và ngay cả khi chúng ta bị loại khỏi phương trình tiến hóa, Trái Đất vẫn sẽ có sự xuất hiện của con người, nhưng đó lại là người anh em họ của chúng ta -người Neanderthal. Các nhà khoa học không chắc tại sao người Neanderthal lại tuyệt chủng khoảng 40.000 năm trước. Có thể có nhiều lý do dẫn đến cái chết của người Neanderthal, nhưng chúng ta - Homo sapiens luôn được coi là những nghi phạm chính.

Chris Stringer, giáo sư về nguồn gốc loài người và là trưởng nhóm nghiên cứu tại Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên ở London, tin rằng sự cạnh tranh về tài nguyên là một yếu tố dẫn đến sự biến mất của người Neanderthal. "Nếu chúng ta không xuất hiện, nếu chúng ta không tiến vào Châu Âu cách đây 45.000 hoặc 50.000 năm trước, tôi nghĩ họ có thể vẫn còn tồn tại", ông nói.

Theo Stringer, người Neanderthal có cuộc sống phức tạp ở Châu Âu, tương tự như người hiện đại, nhưng họ gặp khó khăn trong việc đối phó với biến đổi khí hậu, số lượng tương đối ít và đa dạng di truyền thấp. Tuy nhiên, không chỉ có mỗi người Neanderthal có thể thay thế chúng ta.

Neu nhu nhan loai - Homo sapiens chua tung ton tai, Trai Dat se ra sao?-Hinh-5

Các nhà khoa học vẫn đang nghiên cứu ít nhất một dòng dõi loài người: người Denisovan, sống cùng thời kỳ với người hiện đại và người Neanderthal. Người Denisovan có vẻ gần gũi với người Neanderthal về gen và ngoại hình hơn người hiện đại, nhưng họ khác người Neanderthal ở chiếc răng hàm rất lớn.

Con người có khả năng đã lai với người Denisovan, vì có bằng chứng cho thấy người hiện đại sống ở Châu Đại Dương, New Guinea và những nơi khác có DNA của người Denisovan - phát hiện này cho thấy rằng người Denisovan đã từng tương tác với tổ tiên của người hiện đại sau này định cư xa hơn về phía đông ở Đông Nam Á, nghiên cứu được công bố trên tạp chí Science vào năm 2012. Theo các báo cáo trước đây từ Live Science, người Denisovan cũng đã đối mặt với người Neanderthal ở Siberia, nơi các di tích hóa thạch của hậu duệ lai giữa Denisovan-Neanderthal đã được tìm thấy.

Sự tương tác của những người Denisovan này và bằng chứng hóa thạch cho thấy họ có phạm vi địa lý lớn hơn người Neanderthal và bao phủ môi trường đa dạng hơn, do đó, có thể nói rằng họ có phạm vi thích nghi rộng hơn người Neanderthal rất nhiều. Theo Stringer, bằng chứng DNA cũng cho thấy người Denisovan có thể có đa dạng di truyền hơn người Neanderthal. "Họ có thể có nhiều khả năng sống sót hơn người Neanderthal".

Người Neanderthal và người Denisovan rất quan trọng vì nếu một hoặc cả hai dòng dõi này sống sót, họ có thể sẽ đi theo con đường tương tự như người Homo sapiens, vào cuối kỷ băng hà cuối cùng, họ sẽ phát triển từ săn bắt và hái lượm đến phát triển nông nghiệp.

Stringer nói: "Nếu có đủ thời gian, không có lý do gì để người Neanderthal hay Denisovan không làm điều này, vì vậy thế giới có thể sẽ không khác ngày nay là mấy".

"Tương tự như vậy, họ cũng có thể mắc phải tất cả những sai lầm mà chúng ta đã mắc phải", Stringer nói, vì vậy Trái Đất vẫn sẽ bị nóng lên, nhưng nó cũng có thể Trái Đất sẽ có diện mạo hoàn toàn khác, bởi sự phát triển và xu hướng phát triển của người Neanderthal hoặc người Denisovan vĩnh viễn là những bí ẩn, và chẳng ai biết được điều gì sẽ xảy ra.