Tâm hiếu hạnh của ca sĩ Wanbi Tuấn Anh

Sinh thời ca sĩ Wanbi Tuấn Anh ít nhiều cũng thấm nhuần chân lý “nhân quả, luân hồi, nghiệp báo” mà đức Phật dạy cách đây hơn 25 thể kỷ.

Ca sĩ có pháp danh Minh Tú chỉ mới bước qua tuổi đời 26 vừa vĩnh biệt xả báo thân hôm qua (21/07/2013) tại Tp.HCM. Wanbi Tuấn Anh được công chúng và trong giới nghệ thuật luôn tâm đắc là người “nghệ sĩ hiền hậu”.
Wanbi cũng đã từng phát tâm Quy Y Tam Bảo và tìm hiểu giáo lý Phật pháp lúc còn đang trẻ. “Người tu học Phật pháp phải thấy rõ điều này để biết cách áp dụng lời Phật dạy vào đời sống sinh hoạt của chính mình, để mỗi ngày bớt tham, sân, si, thăng tiến trên đường đạo”.
Sinh thời ca sĩ Wanbi Tuấn Anh ít nhiều cũng thấm nhuần chân lý “nhân quả, luân hồi, nghiệp báo” mà đức Phật dạy cách đây hơn 25 thể kỷ. Nên sau khi biết tự thân lâm vào cơn bạo bệnh, dường như tinh thần lẫn sức khỏe của ca sĩ hầu như suy kiệt hoàn toàn trước thời gian tuổi tác còn lại và chính người phật tử quy y nương tựa Phật pháp Tăng ấy đã thành thật viết trong bức tâm thư báo hiếu gởi mẹ có dòng “Luân hồi chuyển kiếp”.
Có lẽ người nghệ sĩ hiền hậu ấy ít nhiều cũng thấy rõ và thường xuyên chiêm nghiệm nguyên nhân của khổ - tập - diệt - đạo ở đời để đối diện với chính mình, với thực tại, với những gì đang xảy ra trong từng hơi thở bệnh tật.
 
Đức Phật dạy: “Từ vô lượng kiếp đến nay, chúng sanh lang thang trong nẻo luân hồi, bỏ thân này nhận thân khác, sinh đi sinh lại bao lần, sữa mẹ mà chúng ta đã uống còn nhiều hơn nước trong bốn biển”. Nên sau những ngày Wanbi Tuấn Anh đang phải đối diện với từng ngày mà anh cũng dành thời khắc phút giây ngắn ngủi còn lại của bản thân để nghĩ đến cha, nghĩ đến mẹ và những công lao sinh thành dưỡng dục của cha của mẹ “Thời gian qua đi, thấy mẹ lại già thêm... Tôi biết được rằng đây là lúc mẹ phải được nghỉ ngơi và hưởng phước của con cái! Nếu được chọn:
1. Mua nhiều quà cáp, sắm sửa cho mẹ, suốt ngày nói nhũng điều ngọt ngào, vuốt ve và chiều lòng mẹ, làm mẹ hài lòng.
2. Dùng những hành động thiết thực để giúp mẹ gánh vác những khó khăn, nặng nhọc trong cuộc sống,trong gia đình... Báo hiếu cho mẹ để mẹ được sống thảnh thơi, nhẹ nhõm, an hưởng niềm vui hạnh phúc và được báo hiếu cho mẹ.
Dĩ nhiên tôi chọn cách thứ 2 vì tôi không phải tuýp người thể hiện tình cảm, cảm xúc của mình ra bên ngoài. Và tôi nghĩ đó chính là hành động thiết thực nhất mà người mẹ cần ở con cái. Nhưng tôi thấy mình thật vô dụng và bất hiếu vô cùng vì những hành động nhỏ nhoi như thế lại không thể làm được.
Giữa cái tâm của Wanbi Tuấn Anh cũng rất ngộ ý của đức Phật dạy khi Ngài còn tại thế “Này các Tỳ Kheo! Có hai người mà các thầy không thể nào đền ơn cho hết được, đó là cha và mẹ. Nếu có kẻ vai trái cõng cha, vai phải cõng mẹ, đi xa ngàn dặm, cung phụng đủ mọi thức ăn, đồ mặc, chăn nệm và thuốc thang, thậm chí cha mẹ có tiểu tiện, đại tiện trên vai đi nữa, cũng chưa trả được ân sâu cha mẹ. Các thầy phải biết, ân cha mẹ nặng lắm, bồng bế nuôi nấng, dưỡng dục đúng lúc, làm cho ta trưởng thành”.
“Này các Thầy Tỳ Kheo! Nếu người nào biết ơn và đền ơn cho dù ở cách xa Ta ngàn dặm , nhưng ta vẫn xem người đó như đứng hầu gần bên Ta . Còn nếu như người nào không biết ơn và đền ơn , cho dù người đó có đứng hầu gần bên Ta nhưng Ta vẫn xem họ cách xa ngàn dặm”. (Kinh Tăng Nhất A Hàm)
Từ những lời thao thức, trăn trối về hạnh báo ân, báo hiếu của một người Phật tử trẻ đã làm cho chúng tôi chợt nhớ một câu trong bản kinh Đại Tập “Gặp thời không có Phật, khéo thờ cha mẹ tức là thờ Phật”.
Wanbi Tuấn Anh còn nói tiếp: “Nếu có kiếp sau tôi xin được sẽ tiếp tục được làm con của mẹ để có thể được báo hiếu, trả hết nợ cho mẹ”. Hay nói rõ hơn, đức Phật đã đưa ra tiêu chuẩn đối với một người con được gọi là hiếu đạo thì phải hội đủ cả hai mặt sự và lý. Sự là hình thức báo đáp bên ngoài, là lo lắng, chăm nom phụng dưỡng cha mẹ khỏi mọi điều thiếu thốn về vật chất; luôn tôn trọng kính lễ cha mẹ và không được làm cho cha mẹ phiền lòng. Lý là chăm lo đời sống tâm linh cho cha mẹ. Hướng cha mẹ phát khởi thiện tâm, gieo tạo phước lành, tu theo chánh đạo; là làm sao cho cha mẹ hiểu rõ đường lành, tin sâu nhơn quả, thoát ngoài vòng mê tín, ra khỏi luân hồi nghiệp báo, đạt được an lạc giải thoát trong hiện tại và tương lai. Nói cách khác, một đời sống hiền thiện chính là hiếu hạnh, là phát tâm báo ân. Còn như làm điều tà ác, không tu dưỡng đạo đức là bất hiếu.
Như vậy cho thấy nam ca sĩ Wanbi Tuấn Anh trước lúc chuẩn bị tiếp nhận sự chết thì nam ca sĩ đã sớm nhận ra con đường đi đến đó. Con đường rộng lớn, thênh thang ở phía trước “Tái sinh kiếp sau” và chuyển hóa khổ đau, nghiệp lực hiện tại để bình thản đón lấy chiếc áo mới, mang sinh diệt đi về tương lai.
Như trên, chúng ta thấy rõ, từ người xuất gia là các Tỳ Kheo, cho đến người tu tại gia là các cư sĩ, cho đến người ngoại đạo, tất cả đều được đức Thế Tôn khuyên dạy về lòng hiếu thảo đối với cha mẹ, và nhờ vậy, đối với người Việt Nam chúng ta, lòng hiếu thảo vốn in sâu đậm trong tâm hồn, được thể hiện qua biết bao câu ca dao, tục ngữ; thì nay, chữ Hiếu lại càng có vai trò và ý nghĩa vô cùng quan trọng trong đời sống của người dân Việt
“Tâm hiếu là tâm Phật,
Hạnh hiếu là hạnh Phật”
Kinh Tâm – Thích Pháp Bảo

Sự sống là thiêng liêng

Ở đâu cũng có Sự Sống, kể cả trong phố phường chật hẹp nhất.

Nepal chỉ là một nước nhỏ nằm giữa hai cường quốc khổng lồ và đông dân nhất thế giới, đó là Ấn Độ và Trung Quốc. Với một dân số khoảng 30 triệu người, Nepal đóng một vai trò rất phụ thuộc trong lịch sử phát triển của hai nền văn hóa tại hai nước lớn đó, vốn là hai nền văn hóa lâu đời nhất của loài người.
Nepal chính là chiếc cầu bắc từ bình nguyên Ấn Độ đi cao nguyên Tây Tạng...
Nepal chính là chiếc cầu bắc từ bình nguyên Ấn Độ đi cao nguyên Tây Tạng... 

Thực vậy, trong thời cổ đại, vì biên giới của Nepal cũng không hề được xác định rõ, miền đất này chịu ảnh hưởng rõ rệt của hai nước lớn nằm hai bên sườn Hy Mã Lạp Sơn, phía nam bên này là Ấn Độ, phía bắc bên kia là Tây Tạng.

Nghe qua, ta có thể tưởng Nepal là một nơi không có gì đáng chú ý. Thế nhưng, những ai đã đến thăm Nepal sẽ thấy đây là một miền đất vô cùng thú vị. Thực tế, Nepal chính là chiếc cầu bắc từ bình nguyên Ấn Độ đi cao nguyên Tây Tạng. Mà Ấn Độ và Tây Tạng đều là hai vùng có truyền thống sâu sắc của Phật giáo. Do đó, đến Nepal, nếu có chút tâm yên tĩnh, ta có thể cảm nhận nhiều điều vô cùng sâu lắng.

Nepal không phải chỉ là một mảnh đất bằng phẳng nối liền hai nước mà là một chiếc cầu thang đi ngược từ dưới lên trên, từ bình nguyên Ấn Độ lên cao nguyên chừng 4.600m của Tây Tạng. Thủ đô Kathmandu của Nepal với độ cao 1.300m vốn chỉ là một thung lũng hiền hòa trong một quốc gia chứa khoảng tám đỉnh núi trên 8.000m và 240 đỉnh trên 6.000m.

Do đó con đường đi từ Kathmandu, vượt biên giới tại núi Hy Mã, lên Tây Tạng là một con đường của núi non hùng vĩ, của thác nước trắng xóa và của băng vạn niên chói lọi. Đây hẳn là một trong những con đường đẹp nhất thế gian, đúng như các sách du lịch đều nhất trí thừa nhận. Con đường len lỏi giữa những thung lũng xanh rì mà hai bên là những ngọn núi nổi tiếng, một bên là ngọn Shashi Pangma với độ cao 8.014m, bên kia là những đỉnh bảy tám ngàn mét mà cách đó chừng 120km là ngọn Everest cao nhất thế giới. Trên độ cao chưa đến 3.000m, ta còn thấy rừng cây cổ thụ xanh mướt với những dòng thác như những dải lụa bạc thả vài trăm mét từ trên núi cao. Cao hơn nữa, rừng nhiệt đới biến mất, nhường chỗ cho thảo nguyên ngút ngàn với vô số bụi cây dại, thấp sát đất, nở đầy hoa. Thiên nhiên mở rộng vô biên, xa xa chỉ còn những đỉnh núi chói lọi tuyết trắng. Trên cao nguyên, bầu trời thường có một màu xanh thẫm như nhung. Lạ thay, bầu trời lại tối trong lúc mặt đất sáng lên một màu đồng của đá và ánh chiếu từ băng vạn niên nằm cao trên đỉnh.

Thiên nhiên xem ra không phải chỉ có đất và đá, gió và tuyết, nước và lửa mà hình như là một sự xếp đặt có ý thức.
 Thiên nhiên xem ra không phải chỉ có đất và đá, gió và tuyết, nước và lửa
mà hình như là một sự xếp đặt có ý thức.

Đi qua những cảnh thiên nhiên kỳ diệu như thế, con người đô thị như chúng ta sẽ choáng ngợp, tâm sẽ chuyển động cực mạnh. Đến vùng đất vắng người này, con người sẽ chứng kiến sự kỳ diệu của sắc màu và cảnh quan lạ lùng của tạo hóa. Và chỉ cần một chút tâm nhạy cảm, con người sẽ đến với một nhận thức, một tri kiến khác lạ. Đó là thiên nhiên xem ra không phải chỉ có đất và đá, gió và tuyết, nước và lửa mà hình như là một sự xếp đặt có ý thức.

Từ sự nhận biết đó, trong cảnh hùng vĩ của núi sông, của băng tuyết, của mặt trời, của sự vận hành không ngừng trong thiên nhiên, người ta sớm cảm nhận thấy rằng thế giới này do một năng lượng nhất định tạo nên, dù không mấy ai biết năng lượng đó từ đâu đến. Một năng lượng vô tận nhưng vô hình đang vận hành, đó là điều mà con người khi đứng trên cao nguyên Tây Tạng, trên "mái nhà thế giới", sẽ cảm nhận một cách vô cùng rõ nét.

Đứng trước một cảnh quan vĩ đại như thế, con người vừa cảm thấy một lòng kính sợ trước chiều sâu thẳm và sinh động của vũ trụ, mặt khác vừa thấy chính mình cũng là một biểu hiện của sự sống, của năng lượng. Con người vừa thấy mình như là trung tâm, là tiêu điểm, là trục quy chiếu để ngắm nhìn thế giới, đồng thời lại thấy mình là một sự xuất hiện vô cùng nhỏ bé bên cạnh những dạng hình khổng lồ khác của năng lượng. Hai cảm nhận đó thường mâu thuẫn trong đời sống bình thường nhưng nơi đây lạ một điều là chúng không loại bỏ lẫn nhau nữa. Vì nơi đây dạng hình to nhỏ không còn đóng vai trò, dường như chỉ có một dòng năng lượng đang vận hành, nó "ứng" vào đâu thì nơi đó có sự hiện hữu.

Con người bình thường như chúng ta tuy cảm nhận được năng lượng này nhưng không giải thích được, lý trí không nắm bắt được nghịch lý của nó sinh ra. Năng lượng này hầu như vừa nằm bên trong, vừa bên ngoài; vừa tại nơi đây vừa cùng khắp; vừa tạo ra thân mình, vừa tạo ra cảnh vật bên ngoài; vừa vô hình vừa mang đủ thứ dạng hình. Tuy không định nghĩa và gọi tên được nó, nhưng điều chắc chắn là người ta thấy nó kỳ diệu. Chỉ cần nhìn sự cấu tạo và hoạt động của cơ thể chính mình, ta có thể thấy sự kỳ diệu đó. Nhìn vào sự vận hành của thiên thể trong vũ trụ hay trong những cấu trúc nhỏ nhất của vật chất, ta cũng thấy sự kỳ diệu đó.

Xưa nay rất nhiều người đã cảm thấy năng lượng đó. Họ cố tìm một danh tính cho nó. Có người gọi là "Tâm", là "Đạo", là "Tự Tính", là "Tính Không", là "Thượng Đế". Mỗi người cho nó một danh tính riêng mà nội dung và mức độ sâu xa hẳn cũng rất khác nhau. Nhiều người tìm cách "tiếp cận" hay "hòa nhập" với năng lượng đó và cũng vì sự khác biệt trên bước đường tầm cầu đó mà sinh ra rất nhiều môn phái.

Ở đâu cũng có Sự Sống, kể cả trong phố phường chật hẹp nhất.
Ở đâu cũng có Sự Sống, kể cả trong phố phường chật hẹp nhất.

Lại cũng có nhiều người từ chối những danh tính nói trên. Đối với một số người, những danh tính đó có tính chất mơ hồ, xa lìa khoa học, trực tiếp dẫn vào lĩnh vực tôn giáo thần bí. Thậm chí có một số người dị ứng hẳn với vài từ, thí dụ "Thượng Đế", cho rằng dùng từ này thì chấp nhận có một thể trạng nhất định đã sáng tạo nên thế giới và con người, điều mà khoa học ngày nay cũng như cả một số tôn giáo bác bỏ.

Hãy gác qua một bên những cuộc tranh luận vô tận xuất phát từ ngôn từ. Điều mà phần lớn chúng ta đều cảm thấy là có một năng lượng đang luân lưu vận hành. Hãy tạm gọi năng lượng đó là "Sự Sống" vì tất cả chúng ta đều thấy có "Sự Sống" trong thân mình. Trong thiên nhiên Sự Sống hẳn cũng hiện diện nên sinh vật và cây cối mới có thể tăng trưởng và sống còn. Trong vũ trụ hẳn cũng phải có một thứ năng lượng vĩ đại đang vận động. Liệu năng lượng đó cũng chính là Sự Sống trong thân chúng ta hay không thì đó là điều mà người bình thường như chúng ta không ai dám khẳng định.

Câu hỏi vừa nêu thực ra là một vấn đề trung tâm của ngành Bản thể học. Cuối cùng có lẽ người suy tư sẽ chạm trán với câu hỏi "Có nhiều Sự Sống hay chỉ một". "Một hay nhiều" là thắc mắc muôn thuở của người tầm cầu mà đầu óc lý luận không thể trả lời thỏa đáng.

Lục tìm lại trong quá khứ, chúng ta bắt gặp lời của một số thánh nhân về luận đề này: "Một nhưng nhiều". Muốn hiểu lời này ta có thể hình dung một thanh nam châm. Thanh nam châm có một tính chất, đó là hai cực từ tính của nó ở mỗi vết cắt. Thế nhưng khi ta cắt ở bất cứ điểm nào thì tại điểm đó đều sinh ra từ tính như vết cắt trước cả, chất lượng như nhau, không hơn không kém. Tương tự như thế, chỉ có một Sự Sống nhưng nó hiện hữu trong mỗi cá thể, kỳ diệu như nhau, "thánh không tăng, phàm không giảm". Loại tri kiến "một nhưng nhiều" là một loại nghịch lý đặc trưng mà ta sẽ gặp khi đi sâu vào lĩnh vực bí nhiệm của tâm linh. Trong lĩnh vực này con người có lẽ phải tạm quên khái niệm của không gian xa gần, to nhỏ thì mới có thể lĩnh hội được.

Đối với nhận thức bình thường của chúng ta, Sự Sống xem ra là một cái gì riêng tư của mỗi người, nó là "của tôi và do tôi tạo ra". Nhận thức này là nguyên nhân tại sao con người thấy mình tách biệt với cái còn lại trên thế giới và nói cho cùng nó là nguồn gốc của mọi sự đau khổ của đời người. Nhận thức đó làm ta sẵn sàng làm điều ác với đồng loại và nó cũng là tác nhân sinh ra mọi nỗi đau khổ thất vọng và trầm cảm mà tại phương Đông cũng như Tây con người đều gặp phải.

Những ai có may mắn cảm nhận Sự Sống là "một nhưng nhiều" có lẽ sẽ đến với một nhận thức mới về con người và cả muôn thú hay thiên nhiên. Người đó tự thấy mình chỉ là một dạng xuất hiện của Sự Sống, cũng bình đẳng như Sự Sống xuất hiện nơi một người khác, một sinh vật khác và thậm chí nơi cả thực vật hay loài "vô sinh". Người đó sẽ thấy liên đới với mọi dạng của Sự Sống, thấy mình nằm trong mạng lưới vĩ đại của cái mà ta gọi là thế giới hiện tượng. Người đó đồng thời cũng thấy mình chứa đầy đủ tính chất và khả năng của Sự Sống nguyên thủy và có trách nhiệm với dạng hình của mình đang được ban phát, với xã hội của mình đang nằm xung quanh.

Chỉ cần nhớ đến hơi thở hay tiếng đập của trái tim mình là đã "tiếp cận" với cái thiêng liêng.
 Chỉ cần nhớ đến hơi thở hay tiếng đập của trái tim mình là đã "tiếp cận" với cái thiêng liêng.

Chúng ta có lẽ không ai hiểu thấu tất cả những điều nêu trên vì thực ra tri kiến đó quá sâu xa và siêu việt, vượt mọi tầm mức của con người bình thường. Nhưng những ai chỉ cần cảm nhận sơ lược điều này đã thấy mừng run về một điều mà các thánh nhân thời cổ đại đã nói tới. Sự Sống sẽ không những chỉ là "một nhưng nhiều" mà nó còn vô cùng thiêng liêng.

Đối với người đó thì gọi là Sự Sống là "Thượng Đế" hay bất cứ ngôn từ nào khác hay vắng bóng một danh tính đều được cả. Vì có lẽ người đó chỉ cần nhớ đến hơi thở hay tiếng đập của trái tim mình là đã "tiếp cận" với cái thiêng liêng. Đời sống đô thị và một xã hội đầy tranh chấp khó làm ta hiểu ngộ tính chất của Sự Sống. Cảnh quan thiên nhiên có khả năng đánh thức cảm nhận đó của chúng ta, nó đưa đường dẫn lối cho tri kiến lạ lùng và tuyệt diệu đó.

Xuân sắp về, cỏ cây và thiên nhiên như sẵn sàng đón chào nhiều tâm hồn rộng mở. Con đường xuyên núi ở Nepal là một lựa chọn cho những ai đủ điều kiện, nhưng như đã nói, ở đâu cũng có Sự Sống, kể cả trong phố phường chật hẹp nhất.

Phát hiện mới về Phật giáo ở đồng bằng sông Cửu Long

Tấm bản đồ này, ông Trần Hữu Phước sưu tầm được tại khu vực núi rừng “Thất sơn huyền bí”.

Cách đây không lâu, trong dịp đến thăm nhà nghiên cứu Trần Hữu Phước – nguyên Phó Trưởng ban Thường trực Ban Chỉ đạo xây dựng Khu di tích lịch sử cách mạng miền Nam, qua việc thẩm định minh văn trong tấm bản đồ cổ vẽ trên da thú của ông, tôi hết sức vui mừng phát hiện được một di tích văn vật quan trọng có liên quan đến việc du nhập và truyền bá tư tưởng Phật giáo ở vùng đồng bằng châu thổ sông Cửu Long thời cổ đại.

Ta có hờ hững với chính mình?

Tư duy tích cực là cách để mình không hững hờ với mình, đóng góp cho cuộc đời một nhân tố an bình.

Nhiều người biết và thường ngân nga câu hát “Cuộc đời đó có bao lâu mà hững hờ”, nhất là khi... gặp phải những nỗi buồn, bất trắc hoặc gần như đã bước qua bên kia dốc - của hướng đi về phía bờ sâu, vực thẳm. Nên, câu hát ấy coi ngắn gọn vậy nhưng giống như một thần chú, giúp mình tỉnh, bước ra khỏi cơn mê mà chính mình đã tạo, đang dẫn mình đi xa, đánh mất chính mình, không còn tự chủ hoàn toàn, hành xử hơi bị... điên!
Ảnh minh họa.
 Ảnh minh họa.