Sự suy tàn của gia tộc Do Thái quyền lực nhất châu Á

Sassoon là một trong những gia đình hùng mạnh nhất châu Á một thời, nhưng điều gì đã khiến họ rớt khỏi sự ân sủng đó?

Sassoon là một trong những gia đình hùng mạnh nhất châu Á một thời, nhưng điều gì đã khiến họ rớt khỏi sự ân sủng đó? Trên khắp châu Á, nói không ngoa là không mấy khó để tìm thấy dấu vết của Sassoon khi mà gia đình thương nhân người Baghdadi gốc Do Thái này từng được mệnh danh là “Rothschilds phương Đông”. Tác giả bài viết: Jordyn Haime, một nhà báo tự do đang sống ở Đài Bắc (Đài Loan – Trung Quốc). Bà đã giành một năm qua để nghiên cứu về đạo Do Thái dưới sự tài trợ của chương trình Fulbright.

Ở Thượng Hải và Hương Cảng, gia đình Sassoon đã xây dựng nên những tòa giáo đường Do Thái xa hoa, lộng lẫy mà phần lớn ngày nay vẫn tiếp tục được sử dụng. Tại Victors Cafe ở Thượng Hải (quán được lấy theo tên của Victor Sassoon và nằm ngay trong khách sạn cũ của ông), du khách thường thích gọi món “cà-ri Sassoon” vừa thưởng thức vừa ngắm nhìn quận lịch sử Bund. Hay tại Mumbai (Ấn Độ) còn có đại bản doanh cũ của David Sassoon & Co. Tòa nhà nằm ngay trên một bến thuyền lịch sử, có các thư viện, trường học và bệnh viện.

Và người Do Thái ghé thăm Mumbai có thể ngụ trong Dinh thự Sassoon gắn liền với giáo đường Magen David (một trong những giáo đường lớn nhất châu Á bên ngoài lãnh thổ Israel) để dễ dàng tiếp cận các hoạt động cầu nguyện và ngày Shabbat (nghỉ vào ngày thứ Bảy của đạo Do Thái). Một thế kỷ trước, gia đình Sassoon là cái tên nổi tiếng trên toàn thế giới: tin tức về mọi hoạt động buôn bán cũng như các sinh hoạt cá nhân của họ đều là “tin sốt dẻo” trên các diễn đàn báo chí quốc tế.

Su suy tan cua gia toc Do Thai quyen luc nhat chau A

Victor Sassoon, người thiết lập chi nhánh công ty Sassoon của gia tộc ở London, là một tay ăn chơi khét tiếng.

Có thời kỳ gia đình này thống trị 70% khối lượng buôn bán thuốc phiện của Ấn Độ, cũng như làm trùm trong các mặt hàng bông, bạc, vải, ngân hàng, bảo hiểm và cả bất động sản. Họ được chấp nhận là những thành viên của giai tầng quý tộc tại một thời điểm khi người Do Thái chỉ mới chập chững được chấp nhận trong xã hội này. Tuy vậy vào khoảng nửa sau của thế kỷ 20 lại không có doanh nghiệp nào được đả động đến; ngày nay thật khó biết tên tuổi của các thành viên trong gia đình Sassoon là gì. Làm thế nào mà một trong những triều đại thành công nhất thế kỷ 19 đã trỗi dậy và sụp đổ khốc liệt trong khi các triều đại khác như Kadoorie (quý ngài Michael David Kadoorie, tỷ phú Hương Cảng, chiếm 18% vốn của CLP Group tức nhà sản xuất điện lớn nhất Hương Cảng; ông cũng làm chủ 47% vốn của chuỗi các khách sạn Hương Cảng và Thượng Hải) và Rothschild (gia đình người Ashkenazi gốc Do Thái, có nguồn gốc xuất thân từ Frankfurt, họ thành lập đế chế ngân hàng từ thập niên 1760) vẫn còn lại?

Cuốn sách chấn động

Câu chuyện về gia đình Sassoon là một minh họa điển hình về tính 2 mặt của sự đồng hóa và trải nghiệm của những người tị nạn. Các thế hệ sau của gia đình Sassoon đã đánh đổi gốc gác Do Thái của họ nhằm lấy được của cải và hòa nhập vào đời sống quý tộc Anh. Cuối cùng, đó lại là một trong những lầm lẫn tai hại nhất dẫn đến sự sụp đổ của họ, theo lập luận của ông Joseph Sassoon, một hậu duệ của gia đình Sassoon, trong cuốn sách của ông mang tiêu đề “Gia tộc Sassoon: Các thương nhân vĩ đại toàn cầu và việc lập đế chế”. Ông Joseph Sassoon, giáo sư nghiên cứu về Arab của Đại học Georgetown (Washington D.C) đã may mắn tìm thấy một kho tài liệu lưu trữ chưa được khai thác tại Thư viện quốc gia ở Jerusalem, những thứ mà từ đó giờ chưa ai từng được tiếp cận.

Cuốn sách của giáo sư Joseph Sassoon tập trung xoay quanh vào huyết thống của gia đình David Sassoon (một trong những người đã trốn đến Baghdad vào năm 1830 để thiết lập nên công ty David Sassoon & Co. ở Mumbai) trong khi ông Joseph lại là lớp con cháu của một trong những người anh em của David. Gia đình giáo sư Joseph vẫn sống ở Baghdad cho đến thập niên 1970 khi họ chạy trốn chế độ Saddam Hussein. Khi lớn lên, ông Joseph thường hay nghe cha kể về những người họ hàng nổi tiếng của mình, những người cùng chung cái họ Sassoon danh giá. Nhưng ông không mấy để tâm tới việc tìm hiểu về gia đình mình cho đến năm 2012 khi nhận được một lá thư từ một người khác có tên là Joseph Sassoon, một người họ hàng xa đang sống ở Scotland và có mong muốn tìm cách kết nối với các thành viên khác trong gia tộc Sassoon. Trong cuốn sách của mình, giáo sư Joseph viết: “Tôi không mảy may hay biết những chuyến du khảo ban đầu sẽ đi đến đâu”. Thế rồi sự quan tâm càng được thúc đẩy khi giáo sư Joseph tìm thấy được thứ quý giá trong kho lưu trữ ở Thư viện quốc gia tại Jerusalem.

Su suy tan cua gia toc Do Thai quyen luc nhat chau A-Hinh-2

Victor Sassoon, vua hề Charlie Chaplin, và tài tử điện ảnh Reginald Gardiner.

Trong khi phần lớn các tài liệu của gia đình Sassoon như đã dẫn trong cuốn sách “Những hoàng đế cuối cùng của Thượng Hải” xuất bản vào năm 2020, thường chỉ chú trọng vào các hoạt động của gia đình này ở Thượng Hải, thì hàng vạn trang tài liệu do giáo sư Joseph tiếp cận đã có cách nhìn sâu hơn vào gia tộc Sassoon và chúng được dùng làm biên niên sử cho toàn bộ câu chuyện, từ lúc tộc trưởng chạy trốn khỏi Baghdad cho đến khi công ty lụi tàn khỏi cuộc sống đại chúng hơn một thế kỷ sau đó. Hầu hết những tài liệu đó (thư từ, giấy tờ thương mại và thậm chí cả các thực đơn bữa tối) đã được viết bằng tiếng Do Thái – Arab, một phần của lý do chúng không được sử dụng trước đây. Giáo sư Joseph quả quyết: “Không có thứ ngôn ngữ này thì không đủ khả năng để xâu chuỗi các câu chuyện về gia tộc Sassoon”.

Nhờ thông thạo tiếng Arab, Do Thái, Pháp và tiếng Anh, đồng thời có thể đọc được chữ Ba Tư và Ottoman, giáo sư Joseph có thể khám phá các tình tiết và giai thoại chưa từng được kể về gia đình Sassoon. Đó là câu chuyện kể về Farha Sassoon, đối tác thương mại đầu tiên của David Sassoon & Co. và bà cũng là một trong những nữ chủ tịch đầu tiên của tập đoàn toàn cầu này từ năm 1894. Bất chấp việc quản lý kinh doanh mang tính đột phá, nhưng Farha vẫn bị gạt ra ngoài lề hoặc ít chú ý hơn các thành viên nam giới trong gia đình Sassoon bao gồm cả chồng bà. Farha là một nhà lãnh đạo có năng lực và thành công, người đã làm hồi sinh công ty trong suốt hàng thập kỷ sau khi ông David tạ thế, đã ngao ngán chứng kiến con cháu của ông David tranh cãi về các giao dịch của công ty và thậm chí họ tách thành một nhánh công ty riêng trở thành đối thủ cạnh tranh ở Thượng Hải.

Đế chế sụp đổ

Xui xẻo là trường hợp của bà Farha không phải là ngoại lệ. Những người anh em trai lại không thể chấp nhận sự thành công của bà, buộc bà phải rút khỏi công ty sau 7 năm lãnh đạo. Sự cạnh tranh ngay trong gia đình lại là một lỗ hổng chết người đối với bản thân công ty Sassoon. Giáo Joseph phân tích: “Tôi nghĩ đó thực sự là điều ngạc nhiên lớn nhất. Tôi nhớ có lần mình ngồi trong kho lưu trữ và hết sức tức giận chuyện bất hòa trong gia đình họ, ý tôi là đó thuần túy là sự ghen ăn tức ở. Họ cứ nghi hoặc: làm thế nào một bà góa có 3 con lại có thể điều hành một doanh nghiệp toàn cầu? Thực tế thì họ đang ngồi trong các câu lạc bộ ở London, thoải mái hưởng thụ, chớ chả hề làm việc và cũng không nghĩ đến nó”. Ngay lúc đó, gia đình Sassoon đang thật sự chuyển hướng mục tiêu tham gia vào trong hàng ngũ của tầng lớp quý tộc Anh, hậu quả là rời xa luôn nhu cầu của chính bản thân doanh nghiệp.

Đó là sự khởi đầu từ các giá trị mà ông David đã sáng lập công ty, lấy bản sắc Do Thái Baghdadi làm giá trị cốt lõi. Ông David thuê công nhân chủ yếu trong cộng đồng Do Thái, thường đóng cửa vào các ngày Shabbat và những dịp lễ lạt của người Do Thái, đồng thời giành ¼ phần trăm lợi nhuận doanh nghiệp cho tzedakah (làm từ thiện). David xây dựng các giáo đường và trường học để dạy về tôn giáo và thế tục, nuôi 8 đứa con trai được giáo dục tốt nhất bằng cả tiếng Do Thái cũng như làm kinh doanh. Trong suốt nhiều năm để tạo sự tin cậy, các thông tin liên lạc được viết hoàn toàn bằng tiếng Do Thái – Arab, giữ bí mật khiến cho người ngoài không thể đọc được, đồng thời củng cố uy tín của các thành viên trong công ty bất kể họ đang giữ vị trí gì. Con trai và cũng là người kế nghiệp của ông David là Abdullah vẫn tiếp tục duy trì truyền thống này, nhưng các thế hệ sau đó ngày càng rời xa tôn chỉ và để mắt tới việc gia nhập tầng lớp thượng lưu Anh (thay vì thích ứng kinh doanh để thay đổi thế giới).

Su suy tan cua gia toc Do Thai quyen luc nhat chau A-Hinh-3

Di dân Do Thái ở Thượng Hải.

Chẳng bao lâu họ đã thành lập chi nhánh ở London; Abdullah liền đổi tên mình thành Anglicized Albert và nhận tước Hiệp sĩ vào năm 1872. Giáo sư Joseph lập luận: “Ý thức về danh tính của họ đã bị thay thế bởi nhu cầu tuyệt vọng trong việc muốn trở thành một phần của tầng lớp quý tộc Anh. Nhưng nếu là thành viên của tầng lớp quý tộc đó thì cũng đồng nghĩa sẽ không phải làm việc, và nó trở thành một vấn đề lớn theo thời gian”. Đó chỉ là một trong nhiều lý do khiến đế chế Sassoon sụp đổ. Vào đầu thập niên 1920 khi Victor nắm quyền lãnh đạo chi nhánh Thượng Hải của công ty thì thứ làm nên dấu tích của Nhà Sassoon đã bị mất. Lối sống của Victor là sự pha trộn giữa các cam kết kinh doanh và chính trị. Sử gia Joseph giải thích: “Victor cũng làm việc nhưng lại giành phần lớn thời gian và cả tiền bạc để thiết đãi khách khứa tại các khách sạn và hộp đêm quốc tế của mình ở Thượng Hải, hoặc đi du lịch thế giới”.

Khi phát xít Nhật xâm lược Thượng Hải vào năm 1937, Victor đã mắc một sai lầm tai hại đánh chìm công ty bằng cách chuyển tài sản và sự nghiệp kinh doanh của mình từ Ấn Độ sang Thượng Hải vì cho rằng Nhật Bản sẽ không bao giờ tấn công. Ngoài ra, không giống với gia tộc Kadoorie (đế chế thương mại vẫn tồn tại đến ngày nay và tiếp tục thành công), Victor đã lỡ cơ hội đầu tư vào Hương Cảng. Khi Trung Quốc giành độc lập năm 1949, các tài sản của công ty đã bị tịch thu, và sang thập niên 1970, David Sassoon & Co. bị giải thể. Khối tài sản hàng triệu đôla của gia đình Sassoon bỗng chốc biến mất khi việc kinh doanh sụp đổ. Khi đế chế Sassoon sụp đổ, các cộng đồng dân cư đã tái thiết ngay trên những tài sản mà họ bỏ lại, mặc dù đó có lẽ là phần lâu dài nhất của di sản Sassoon ở châu Á.

Solomon Sopher, chủ tịch của cộng đồng nhỏ Do Thái Baghdadi đang tồn tại ở Mumbai, đã trở thành chủ tịch của Quỹ tín thác Sir Jacob Sassoon từ năm 1998. Ông Solomon than: “Lúc đảm nhiệm vị trí đó, hầu như quỹ đã cạn tiền”. Cộng đồng đã nhận được sự hỗ trợ từ chính phủ để phục hồi lại giáo đường Magen David vào năm 2019, nhưng vẫn lệ thuộc vào các khoản tài trợ. Quỹ tiếp tục truyền thống từ thiện như ông David đã làm từ gần 2 thế kỷ trước. Ông Solomon giải thích: “Chúng tôi chăm sóc những người ít may mắn hơn các cá nhân khác trong cộng đồng, chứ không chỉ giúp người Do Thái mà cả người không có gốc Do Thái”. Thành công của gia tộc Sassoon đại diện cho một loại nghịch lý: mặt tối của câu chuyện đồng hóa trong đó cho phép một nhóm ít người giống như gia tộc Sassoon vươn lên làm giàu, và trả giá khi cố gắng “đi theo đường gân của đế chế Anh”, dẫn lời ông Paul French, tác giả kiêm nhà báo từng viết về thời kỳ Thế chiến II ở Trung Quốc.

Nhà báo Paul French nhấn mạnh: “Thực tế là việc họ thành lập chi nhánh công ty ở London và chính cái nhánh đó là gốc rễ gây hư hỏng cho gia đình này. Nó là thực tế không thể tránh khỏi, bởi vì gia tộc Sassoon không thể tồn tại nếu không có đế chế thương mại. Và đế chế đó sụp đổ vì không có người Sassoon tài năng”.

Loạt ảnh hiếm có về vùng đất thánh Jerusalem năm 1979

Buổi cầu nguyện ở Bức tường Than Khóc, trong cửa hàng ở khu phố Ả Rập, binh sĩ Israel tuần tra trên đường phố... là đoạt ảnh đặc biệt về Jerusalem năm 1979 được ghi lại qua ống kính một du khách người Mỹ.

Loat anh hiem co ve vung dat thanh Jerusalem nam 1979
Khu chợ họp ở gần Cổng Damascus, Jerusalem năm 1979. Cổng Damascus là một trong những cổng chính của thành cổ Jerusalem. Đây là nơi bắt đầu của con đường từ Jerusalem đến Damascus thời xưa. Ảnh: Alan Denney Flickr.
Loat anh hiem co ve vung dat thanh Jerusalem nam 1979-Hinh-2
Binh sĩ Israel tuần tra trên đường phố Jerusalem. Người Israel đã giành quyền kiếm soát toàn bộ thành phố này từ cuộc chiến với khối Ả Rập năm 1967. Trước đó phần Đông Jerusalem nằm dưới sự quản lý của Jordan.

10 toà nhà bỏ hoang nổi tiếng và những câu chuyện kỳ quái phía sau

Những lâu đài và dinh thự có giá trị lịch sử này từng là nơi sinh sống của các gia đình quyền quý. Thế nhưng chúng đã bị bỏ hoang và ẩn chứa đằng sau là những câu chuyện đầy bí ẩn.

1. Lâu đài Lennox

Lâu đài Lennox ở Scotland được xây dựng vào năm 1812. Chủ của lâu đài này là ông John Lennox Kincaid Lennox, thuộc gia tộc Kincaid. Đây là nơi sinh sống của gia đình ông trong nhiều năm.

Đến năm 1930, lâu đài được chuyển đổi thành nhà tị nạn cho những người bị bệnh tâm thần. Khi Chiến tranh Thế giới lần thứ II nổ ra, những người bệnh tâm thần được chuyển đến các toà nhà khác và lâu đài được sử dụng làm bệnh viện.

10 toa nha bo hoang noi tieng va nhung cau chuyen ky quai phia sau

Lâu đài Lennox đang được xem xét làm căn hộ.

Nhiều cuộc xô xát giữa các bệnh nhân đã xảy ra tại đây. Trong một vụ bạo loạn nghiêm trọng, nhiều nhân viên và bệnh nhân đã tháo chạy khỏi bệnh viện. Những người gây ra cuộc bạo loạn bị nhốt bên trong và họ đã đập phá mọi thứ.

Bệnh viện đã không còn hoạt động vào những năm 1980 và chính thức đóng cửa vào năm 2002. Gần đây, nhà chức trách đang muốn chuyển đổi toà lâu đài này thành dự án căn hộ.

2. Dinh thự Lynnewood

Lynnewood được xem là dinh thự lớn thứ 12 ở Hoa Kỳ. Dinh thự được thiết kế theo kiến trúc tân cổ điển, có tổng cộng 110 phòng. Đây từng là nơi lưu giữ các bộ sưu tập nghệ thuật châu Âu lớn nhất nước.

Dinh thự này được xây dựng năm 1900. Chủ của nó là ông Peter Arrell Brown Widener, một doanh nhân giàu có nhờ đầu tư vào phương tiện công cộng, đóng gói thịt và nhiều lĩnh vực khác. Năm 1915, ông Peter qua đời và người con trai tên Joseph được thừa kế dinh thự.

10 toa nha bo hoang noi tieng va nhung cau chuyen ky quai phia sau-Hinh-2

Dinh thự Lynnewood có tổng cộng 110 phòng, được bán với giá 192.000 USD vào năm 1952.

Đến năm 1943, ông Joseph qua đời. Theo thống kê năm 1945, tổng giá trị tài sản của nhà Widener là 98 triệu USD.

Người chủ sau đó đã rao bán dinh thự Lynnewood và năm 1952 nhà thuyết giáo Carl McIntire đã mua nó với giá 192.000 USD. Dinh thự này bị tịch thu năm 2006 khi chủ của nó không thể trả khoản thế chấp.

3. Lâu đài Elda

Được xây dựng vào những năm 1920, toà lâu đài này tọa lạc trên khu đất rộng hơn 202.300m2 ở Ossining, New York. Chủ nhân của lâu đài Elda là ông David T. Abercrombie, người đồng sáng lập Abercrombie & Fitch.

Là một kiến trúc sư, vợ của David đã thiết kế lâu đài. Ban đầu, bà đã quyết định đặt tên cho lâu đài theo tên của 4 người con, gồm Elizabeth, Lucy, David và Abbott.

10 toa nha bo hoang noi tieng va nhung cau chuyen ky quai phia sau-Hinh-3

Sau khi lâu đài Elda hoàn tất xây dựng, loạt biến cố xảy ra với gia đình Abercrombie.

Sau khi lâu đài hoàn tất xây dựng vào năm 1928, bi kịch đã ập đến gia đình họ. Đầu tiên là con gái Lucy qua đời trong vụ tai nạn tại nhà máy của cha cô và sau đó ông David cũng qua đời vì bệnh. Vợ ông David sau đó đã chuyển đến sinh sống cùng người con gái lớn cho đến khi bà qua đời vào năm 1955. Toà lâu đài đã bị bỏ hoang một thời gian dài.

4. Dinh thự Ashlar

Dinh thự rộng hơn 1.000m2 này được gia đình ông Robert Brinkley Snowden xây dựng năm 1896. Dinh thự có quy mô 8 phòng ngủ, 6 quầy bar, 5 phòng tắm và hồ bơi trong nhà. Đến năm 1942, ông Robert qua đời. Khoảng chục năm sau, gia đình ông sử dụng dinh thự làm nhà hàng.

10 toa nha bo hoang noi tieng va nhung cau chuyen ky quai phia sau-Hinh-4

Dinh thự từng được sử dụng làm hộp đêm.

Những năm 1990, Robert Hodges mở hộp đêm ở dinh thự và đặt tên là The Castle. Khi bị đóng cửa do thường xuyên tụ tập quá đông người, chủ hộp đêm này đã quyết định đổ cát đầy bãi đậu xe để nó có thể được sử dụng như một "bãi biển" dành cho những bữa tiệc ngoài trời.

Sau đó, dinh thự này và khu đất xung quanh đã được các nhà đầu tư bất động sản mua lại nhưng họ lại không xây dựng. Chủ sở hữu gần đây nhất của dinh thự này là nhà phát triển bất động sản Juan Montoya. Chủ sở hữu này đã mua dinh thự với giá 59.000 USD và có kế hoạch biến nơi này thành địa điểm tổ chức sự kiện.

5. Lâu đài Bannerman

Lâu đài Bannerman nằm trên một hòn đảo ở sông Hudson, New York. Ông Francis Bannerman VI đã mua lại hòn đảo này vào năm 1900 để làm nhà kho phục vụ cho việc kinh doanh vũ khí của gia đình. Ông cũng cho xây dựng một ngôi nhà nhỏ hơn ở gần đó, nhưng việc xây dựng chưa hoàn thành thì ông qua đời.

10 toa nha bo hoang noi tieng va nhung cau chuyen ky quai phia sau-Hinh-5

Lâu đài Bannerman trở thành địa điểm tham quan nổi tiếng.

Khi luật pháp thay đổi vào thế kỷ 20, việc kinh doanh của gia đình của gia đình Bannerman khó khăn hơn. Hòn đảo bị một cơn bão lớn tàn phá và chiếc phà phục vụ cho việc đi lại cũng bị hư hỏng. Lâu đài Bannerman đã bị bỏ hoang suốt một thời gian dài trước khi chính phủ mua lại nó vào những năm 1960.

Sau khi lâu đài Bannerman mở cửa cho công chúng tham quan được 1 năm thì xảy ra vụ hoả hoạn. Dù công trình bị hư hại nhưng đã được sửa chữa và gần đây đã có nhiều chuyến tham quan đến đây được tổ chức trở lại.

6. Dinh thự của gia đình Liu

Được xây dựng vào năm 1929 theo phong cách Baroque, dinh thự của gia đình Liu còn được gọi là “ngôi nhà ma ám” Minxiong. Đây là một ngôi nhà có những lời đồn rùng rợn.

Nằm ở vùng nông thôn Đài Loan, dinh thự của gia đình Liu bị bỏ hoang từ những năm 1950 khi các thành viên trong gia đình không rõ đã đi đâu. Giống như tất cả những nơi bí ẩn, có rất nhiều đồn đoán xung quanh gia đình này và câu hỏi vì sao họ lại rời bỏ ngôi nhà đẹp đẽ này?

10 toa nha bo hoang noi tieng va nhung cau chuyen ky quai phia sau-Hinh-6

Nhiều tin đồn rùng rợn liên quan đến dinh thự của gia đình Liu.

Có tin đồn cho rằng cô gái giúp việc của gia đình đã ngoại tình với ông chủ Liu Rong-yu. Khi chuyện ngoại tình bại lộ, cô gái giúp việc đã nhảy xuống một cái giếng tự tử. Vài năm sau, các thành viên khác trong gia đình cũng lần lượt tự tử.

Tuy nhiên, cũng có những lời đồn khác như do công việc kinh doanh nên gia đình họ phải chuyển đến nơi khác gần trung tâm thành phố hơn.

7. Dinh thự Ha Ha Tonka

Dinh thự Ha Ha Tonka nằm ở Quận Ozarks, tiểu bang Missouri, Hoa Kỳ. Một số người cho rằng tên của công viên tiểu bang có nghĩa là "vùng nước cười", có thể vui vẻ, đáng yêu hoặc cực kỳ rùng rợn, tùy thuộc vào cách bạn cảm nhận nó.

Dinh thự vỏ sò này là giấc mơ của doanh nhân giàu có Robert Snyder. Năm 1906, ông bắt tay vào xây dựng một dinh thự theo phong cách châu Âu trên hồ nước riêng của mình. Tuy nhiên, ông đã đột ngột qua đời trong một vụ tai nạn ô tô ở Missouri.

10 toa nha bo hoang noi tieng va nhung cau chuyen ky quai phia sau-Hinh-7

Trước khi trở thành điểm tham quan nổi tiếng, dinh thự Ha Ha Tonka là khách sạn.

Các con trai của ông Robert tiếp tục xây dựng cho đến khi dinh thự được hoàn thành vào năm 1920. Một người con của ông Robert đã sống ở dinh thự và sau đó liên quan đến hàng loạt vụ kiện về quyền đất đai.

Cuối cùng, con trai của Robert đã bị tịch thu dinh thự và nơi đây đã trở thành một khách sạn và khu nghỉ dưỡng vào giữa thế kỷ 20. Sau đó, khách sạn này đã bị hư hại nghiêm trọng trong một vụ hoả hoạn.

Giờ đây, những gì còn lại của dinh thự chỉ là những bức tường trơ trọi. Tuy vậy, nó đã trở thành di tích nổi tiếng.

8. Dinh thự Mudhouse

Tọa lạc tại Quận Fairfield, Ohio, dinh thự Mudhouse có một danh tiếng xấu. Không ai biết dinh thự này được xây dựng vào thời điểm nào, tuy nhiên nhiều ý kiến cho rằng dinh thự được xây dựng trong khoảng thời gian từ năm 1840 đến năm 1900.

Không giống như những dinh thự bị bỏ hoang nói trên, bạn không thể ghé thăm nó nữa, vì ngôi nhà đã bị tháo dỡ vào năm 2015. Bởi từ năm 1930 đến khi nó bị tháo dỡ, không có ai sinh sống trong toà nhà này.

10 toa nha bo hoang noi tieng va nhung cau chuyen ky quai phia sau-Hinh-8

Dinh thự Mudhouse hiện đã bị tháo dỡ.

Người sống cuối cùng trong dinh thự này được cho là Lulu Hartman-Mast và chủ sở hữu hiện tại của dinh thự là người họ hàng của cô, tên là Jeanne Mast.

Có quá ít thông tin về những người đã sống ở đây và những nơi bị bỏ hoang thường có những lời đồn bí ẩn, tuy vậy với trường hợp này thì các tin đồn có vẻ không đáng tin.

9. Villa de Vecchi

Villa de Vecchi nằm gần hồ Como, Ý. Được xây dựng từ năm 1854 đến năm 1857, đây là dinh thự nghỉ dưỡng của gia đình Bá tước Felix De Vecchi. Tuy nhiên, gia đình ông chỉ sử dụng dinh thự được vài năm trước khi một loạt bi kịch xảy ra.

Đầu tiên, sau khi dinh thự hoàn tất xây dựng được 1 năm thì kiến trúc sư qua đời. Đến năm 1862, khi trở về dinh thự, Bá tước De Vecchi phát hiện vợ mình bị sát hại và cô con gái mất tích.

10 toa nha bo hoang noi tieng va nhung cau chuyen ky quai phia sau-Hinh-9

Villa de Vecchi bị bỏ hoang từ những năm 1960 đến nay.

Sau một năm không tìm kiếm được con gái, Bá tước De Vecchi đã tự tử. Gia đình anh trai của Bá tước De Vecchi sau đó đã chuyển đến dinh thự này sinh sống cho đến Chiến tranh Thế giới lần thứ II. Dinh thự này đã bị bỏ hoang từ những năm 1960.

Một câu chuyện bí ẩn xảy ra vào năm 2002 khi một trận tuyết lở đã càn quét tất cả các ngôi nhà trong khu vực nhưng riêng dinh thự này lại không bị hư hại gì.

10. Dinh thự Hegeler Carus

Hegeler Carus nằm ở La Salle, Illinois, Hoa Kỳ. Đây là một trong số ít những dinh thự bị bỏ hoang được phục hồi và trở thành một địa danh. Chủ của dinh thự này là Henry. C. Hegeler, một nhà sản xuất kẽm và kinh doanh xuất bản.

10 toa nha bo hoang noi tieng va nhung cau chuyen ky quai phia sau-Hinh-10

Sau một thời gian bỏ hoang, dinh thự Hegeler Carus được cải tạo thành bảo tàng.

Gia đình Hegelers có 10 người con, nhưng hai người con gái của họ qua đời cùng năm, một người khác qua đời ở tuổi 23. Con cháu của ông sống trong ngôi nhà 7 tầng cho đến khi người cuối cùng qua đời vào năm 2001.

Dinh thự này bị bỏ hoang một thời gian ngắn trước khi nó được cải tạo và biến thành một viện bảo tàng. Một số người cho rằng mặc dù vẻ ngoài cũ kỹ của dinh thự trông giống như một "ngôi nhà ma" nhưng nó mang lại năng lượng tích cực, vui vẻ.  

Hé lộ những người hùng cứu người Do Thái khỏi cuộc diệt chủng của Hitler

Trong Thế chiến 2, một số người đã âm thầm cứu sống hàng trăm người Do Thái trong bối cảnh phát xít Đức thực hiện cuộc thảm sát cộng đồng này.

He lo nhung nguoi hung cuu nguoi Do Thai khoi cuoc diet chung cua Hitler
 Gabrielle Weidner (1914 - 1945) là một trong những người hùng thầm lặng cứu sống nhiều người Do Thái khỏi cuộc diệt chủng của phát xít Đức. Bà là nhà ngôn ngữ học gốc Bỉ và sống ở Pháp trong thời gian Đức quốc xã chiếm đóng nước này.