Sản phụ suýt phải cắt bỏ tử cung sau cơn đau bụng dưới

Nếu không được phẫu thuật cấp cứu kịp thời, tính mạng của sản phụ và thai nhi ở Quảng Ninh có thể gặp nguy hiểm, thậm chí, bà mẹ phải cắt bỏ tử cung.

Ở tuần mang thai thứ 33, chị L.T.H. bất ngờ thấy đau bụng dưới. Cơn đau ngày càng tăng. Nhận thấy bất thường, sản phụ đã đến Bệnh viện Việt Nam - Thụy Điển Uông Bí, Quảng Ninh, để kiểm tra.
Qua thăm khám, các bác sĩ nhận thấy sản phụ có cơn co tử cung rối loạn, tần số 6. Đồng thời, tim thai có dấu hiệu suy, tử cung co cứng. Hình ảnh siêu âm cho thấy bệnh nhân có khối máu tụ sau nhau thai, kích thước 7x9 cm. Các bác sĩ chẩn đoán sản phụ H. bị suy thai cấp, bong nhau non và chỉ định phẫu thuật mổ bắt, cứu thai nhi.
Theo bác sĩ chuyên khoa II Vũ Thị Dung, Trưởng khoa Điều trị theo yêu cầu, nhờ tiến hành phẫu thuật kịp thời, con gái của chị H. đã chào đời khỏe mạnh và nặng 2,04 kg. Sức khỏe của sản phụ đã ổn định và bảo toàn được tử cung.
Bác sĩ Dung cho biết nếu không được phẫu thuật cấp cứu kịp thời, tính mạng của sản phụ và thai nhi có thể gặp nguy hiểm. Thậm chí, nếu chậm trễ, tử cung của sản phụ sẽ phải cắt bỏ để tránh việc chảy máu.
San phu suyt phai cat bo tu cung sau con dau bung duoi
Sức khỏe của trẻ đã ổn định và có thể xuất viện trong vài ngày tới. Ảnh: BVCC. 
Bác sĩ này cũng nhận định trường hợp như sản phụ H. rất hy hữu. Thông thường, nhau bong non sẽ xảy ra ở các trường hợp sản phụ có tiền sử tăng huyết áp, tiền sản giật hoặc do chấn thương. Tuy nhiên, trước đó, sức khỏe của sản phụ H. hoàn toàn ổn định.
Vì vậy, bác sĩ Dung khuyến cáo các bà mẹ khi mang thai cần sớm phát hiện những bất thường về sức khỏe, đặc biệt là vài tháng cuối thai kỳ. Đây là cách tốt nhất để bảo vệ tính mạng của sản phụ và thai nhi. Khi phát hiện ra bất thường, bà bầu cần đến các cơ sở y tế có chuyên khoa sản để thăm khám kịp thời, tránh những trường hợp đáng tiếc có thể xảy ra.

Âm nhạc làm dịu êm tâm lý cho sản phụ khi sinh mổ

(Kiến Thức) - Thêm 1 trải nghiệm dịu êm cho sản phụ sinh mổ tại bệnh viện Từ Dũ.

Am nhac lam diu em tam ly cho san phu khi sinh mo
 

Tai nghe để lắng dịu tâm hồn làm giảm đi lo âu trong lúc phẫu thuật là một trong những cải tiến mới nhằm đem đến trải nghiệm êm ái cho sản phụ sinh mổ tại bệnh viện Từ Dũ. Thấu hiểu tâm trạng bất an này có thể làm sản phụ tăng huyết áp, tăng nhịp tim... các bác sĩ bệnh viện Từ Dũ đã cho sản phụ được thư giãn bằng các bản nhạc hoà tấu.

Dấu hiệu nhận biết sớm bệnh ung thư tuyến tiền liệt

Sự phát triển của ung thư tuyến tiền liệt thường rất chậm và không có biểu hiện ở bệnh nhân ở giai đoạn sớm, chính vì vậy mà rất nhiều bệnh nhân chỉ phát hiện bệnh khi đã ở giai đoạn muộn dẫn tới điều trị rất khó.

Theo thống kê của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) năm 2018, ung thư tiền liệt tuyến đứng thứ 4 trong các loại ung thư phổ biến với số lượng 1.276.106 ca mắc mới và tỷ lệ tử vong đứng hàng thứ 8 trong các loại bệnh ung thư với 358.242 ca tử vong. Tuy nhiên, tại Việt Nam, ung thư tiền liệt tuyến chỉ đứng hàng thứ 11 với 3.959 ca mới mắc và có tỷ lệ tử vong đứng hàng thứ 13 với 1.873 ca tử vong năm 2018.

Tiền liệt tuyến nằm phía dưới bàng quang và phía trên trực tràng, nằm cạnh tuyến tiền liệt là túi tinh (seminal vesicles), đường dẫn nước tiểu (Uretha) đi xuyên qua trung tâm của tuyến tiền liệt. Kích thước của tuyến tiền liệt thay đổi theo độ tuổi, ở nam giới trẻ tuổi, kích thước tuyến tiền liệt tương đương với kích thước của quả óc chó và lớn hơn khi nam giới về già.

Hầu hết tế bào ung thư tuyến tiền liệt thuộc loại ung thư biểu mô tuyến, trong một số trường hợp tế bào ung thư tuyến tiền liệt phát triển nhanh nhưng hầu hết là sự phát triển của ung thư tuyến tiền liệt thường rất chậm và không có biểu hiện về bệnh lý ở bệnh nhân ở giai đoạn sớm, chính vì vậy mà rất nhiều bệnh nhân chỉ phát hiện bệnh khi đã ở giai đoạn muộn dẫn tới điều trị rất khó khăn và có khả năng gây tử vong.

BS. Lê Thị Khánh Tâm - Trưởng khoa Ung bướu xạ trị, Bệnh viện Hữu nghị cho biết, bệnh ung thư tuyến tiền liệt có xu hướng tăng lên tại Việt Nam. Theo ước tính của Globocan, ung thư tuyến tiền liệt xếp hàng thứ 6 về tỷ lệ mắc trong các loại ung thư, cao hơn năm bậc so với thống kê vào năm 2012. Chiếu theo ước tính này, có xấp xỉ 40 nam giới mắc bệnh trong 100.000 dân. Tỷ lệ tử vong lên đến 45% so với số mắc.

Ung thư tuyến tiền liệt có thể được kiểm soát tốt, kéo dài thời gian sống cho người bệnh, nâng cao chất lượng sống hơn nhiều bệnh ung thư khác khi được phát hiện sớm và điều trị kịp thời, bài bản.

Tuy nhiên, hiện chưa có chương trình sàng lọc, chẩn đoán sớm nào cho người bệnh ung thư tuyến tiền liệt trong cộng đồng. Bên cạnh đó, một số bác sĩ chưa được tìm hiểu sâu về biện pháp điều trị bệnh ung thư này, hoặc cho rằng bệnh chỉ cần cắt tinh hoàn, không có biện pháp điều trị khác bổ sung.

Dấu hiệu nghi ngờ ung thư tuyến tiền liệt
Theo các bác sĩ, ung thư tuyến tiền liệt ở giai đoạn sớm thường không có dấu hiệu nào gợi ý rõ ràng và đa số các dấu hiệu của ung thư tuyến tiền liệt cũng có thể gặp ở các bệnh lý khác. Tuy nhiên, có thể ghi nhận một số dấu hiệu sau:

- Tiểu khó, tiểu lắt nhắt.

- Nước tiểu có máu nhưng thường lượng máu rất ít, mắt thường khó phát hiện được mà phải nhờ đến xét nghiệm (tiểu máu vi thế).

- Tuyến tiền liệt to hơn bình thường và có thể sờ thấy một nhân cứng. Để biết cần phải cho tay vào hậu môn khám.

- Khi bệnh tiến triển nặng có thể gặp các triệu chứng như: rối loạn cương: bệnh nhân có thể không cương được hay không giữ được tình trạng cương đủ lâu; phù 2 bàn chân; tiểu không tự chủ hay bí tiểu; đau nhức xương hay có thể bị gãy xương khi gặp một chấn thương nhẹ.

Để chẩn đoán bệnh ung thư tuyến tiền liệt cần phải phải lưu ý khám tầm soát ung tuyến tiền liệt hàng năm ở nam giới trên 50 tuổi. Nếu gia đình có cha, anh ruột bị ung thư tuyến tiền liệt nên khám tuyến tiền liệt thường niên từ tuổi 40. Thăm khám hậu môn trực tràng: với các bác sĩ có kinh nghiệm có thể phát hiện các dấu hiệu nghi ngờ của ung thư tuyến tiền liệt...

Các thống kê cho thấy tỷ lệ bệnh nhân ung thư tiền liệt tuyến chưa có di căn xa được điều trị đúng phương pháp sống thêm sau 5 năm là gần 100 %, tỷ lệ này giảm xuống chỉ còn 30% ở các bệnh nhân đã có di căn xa. Do đó phát hiện bệnh sớm và điều trị đúng phương pháp là yếu tố vô cùng quan trọng trong chữa khỏi ung thư tiền liệt tuyến – một căn bệnh có tỷ lệ chữa khỏi rất cao nhưng diễn biến của bệnh rất chậm và triệu chứng thường không rõ ràng dẫn đến khi điều trị bệnh nhân đã có di căn xa, lúc này khả năng chữa khỏi bệnh rất thấp.

Mẹ bầu 162kg “vượt cạn” an toàn nhờ sự trợ giúp tích cực của bác sĩ

(Kiến Thức) - 12h40, ngày 11/8/2019, Bệnh viện Từ Dũ tiếp nhận chị N.T.T.H – (1994, Long An) được Bệnh viện Đa khoa Vạn Phúc 2 (Bình Dương) chuyển đến, với lý do con so, thai 35 tuần, ngôi đầu, tiền sản giật nặng, béo phì.

Bệnh nhân N.T.T.H lập gia đình đã 6 năm (2013), không điều trị hiếm muộn, mang thai tự nhiên, cân nặng trước khi mang thai 110kg với chỉ số cơ thể (BMI - Body mass index) 48,88. Cân nặng lúc nhập viện 162kg, cao huyết áp (150/100 mmHg), không tiền sử bệnh ngoại khoa và phụ khoa, được điều trị tiết chế đã 3 tháng.

Với tiên lượng phụ nữ béo phì sẽ làm tăng các biến cố sản khoa về tim mạch, huyết áp, tiền sản giật, đái tháo đường, mất tim thai trong bụng mẹ…, chị T.H. được nhập vào khoa Sản A - Bệnh viện Từ Dũ để kiểm tra và theo dõi sát quá trình chuyển dạ. Ngày 13/8/2019, sau các đợt giục sanh thất bại, các bác sĩ đã quyết định phẫu thuật bắt con cho bệnh nhân T.H.

Me bau 162kg “vuot can” an toan nho su tro giup tich cuc cua bac si
 
Sáng 14/8/2019, chị T.H được chuyển vào Khoa Gây mê hồi sức, ê-kíp phẫu thuật được tập trung với các bác sĩ Sản khoa và Gây mê nhiều kinh nghiệm để lên phương án can thiệp an toàn cho sản phụ và bé trong quá trình phẫu thuật bắt con, với sự cân nhắc hết sức thận trọng giữa hai phương pháp gây tê và gây mê. BS CKII Hồng Công Danh - Trưởng khoa Gây mê hồi sức cho biết, gây mê để tiến hành phẫu thuật đối với sản phụ béo phì sẽ không đơn giản. Nếu gây mê, bác sĩ sẽ phải dùng lượng thuốc mê tương ứng với cân nặng của sản phụ để có thể duy trì mê cho đến khi hoàn tất cuộc mổ. Bên cạnh đó, do tình trạng cân nặng “quá khổ” bệnh nhân có cổ bị ngắn, lưỡi to, vùng hầu họng hẹp nhiều hơn so với một sản phụ bình thường, nên việc đặt nội khí quản để gây mê gặp nhiều khó khăn, khả năng gây tổn thương vùng hầu họng, dễ bị hít sặc do nguy cơ trào ngược dạ dày là không tránh khỏi, kể cả biến chứng suy hô hấp do việc rút ống nội khí quản sau phẫu thuật.
Sau khi hội ý, kíp mổ đã thống nhất sử dụng phương pháp gây tê tủy sống. Kỹ thuật này giúp hạn chế được các nguy cơ nêu trên trong quá trình phẫu thuật cũng như hạn chế ở mức thấp nhất những tình huống nguy hiểm có thể xảy ra cho bé. Với kinh nghiệm dày dặn trong lĩnh vực gây mê, BS Hồng Công Danh là người trực tiếp gây tê cho sản phụ. Thách thức khi tiến hành kỹ thuật gây tê cho sản phụ T.H là khả năng uốn cong lưng của bệnh nhân rất kém do cản trở của lớp thành bụng dày quá mức, khiến khoảng cách từ da đến mục tiêu (khoang dưới nhện) lớn hơn bình thường, gây khó khăn cho việc tìm các mốc, vị trí đốt sống để châm tê bị che khuất bởi lớp mô mỡ.
Khi thuốc đã tác dụng lên dây thần kinh phần thân dưới, sản phụ bị mất cảm giác, tạo thuận lợi cho phẫu thuật viên - BS CKII Trần Ngọc An, tiến hành ca mổ lấy thai. Tuy nhiên khi thực hiện đường rạch ngang thân tử cung để tiếp cận ổ bụng của sản phụ, bác sĩ đã phải “đi” rộng hơn so với các bà mẹ có cân nặng bình thường. Ca mổ thành công và mẹ bầu sinh được một bé trai cân nặng 3300g, hồng hào và khóc rất to.
Me bau 162kg “vuot can” an toan nho su tro giup tich cuc cua bac si-Hinh-2
 
Có mặt bên cạnh con gái trong suốt thời gian nhập viện cho đến khi được chuyển sang phòng Hồi sức và được chăm sóc tận tình tại khoa Hậu phẫu, bà V.T.T., mẹ chị N.T.T.H vui vẻ chia sẻ: “Lúc mới sinh ra, H. chỉ nặng 2200g. Thời con gái H. cũng có dáng người gọn gàng, chỉ từ khi lấy chồng đến nay không hiểu sao “tự nhiên người cứ ngày càng sổ ra”, dù chuyện ăn uống cũng đạm bạc do hoàn cảnh kinh tế chỉ ở mức tạm đủ và trong dòng họ cũng không có ai bị béo phì… ”. Hỏi về sự tăng cân vượt mức của mình, nhất là trong quá trình mang thai, chị T.H. nói: “Lập gia đình đã 5-6 năm mà chưa có con, cũng buồn lắm. Thấy bên nhà chồng mong cháu nên tôi đã nhiều lần đi khám sức khỏe để xem tình trạng béo phì của mình có ảnh hưởng gì đến việc chậm mang thai? Tuy lo lắng nhưng gia đình hai bên chưa dám nghĩ đến chuyện điều trị hiếm muộn. Tưởng là hai vợ chồng không thể có con do bản thân ngày càng “mập” và có lần đi khám cũng nghe bác sĩ nói là… khó “đậu” thai. Nên đầu năm nay, biết được mình có thai, gia đình ai cũng mừng vì sắp có được “cu tí”. Trong thời gian mang thai không có bất cứ triệu chứng gì của sự “ốm nghén”, ăn uống cũng bình thường, có điều hơi nhiều hơn trước và chỉ thích ăn cá… ”
Theo với công thức đánh giá tình trạng béo phì dựa trên chỉ số cơ thể (BMI) người Châu Á của Viện Y tế quốc gia (NIH) và Tổ chức Y tế thế giới (WHO):
Me bau 162kg “vuot can” an toan nho su tro giup tich cuc cua bac si-Hinh-3
 

Bảng phân tích đã minh chứng, hầu hết các nghiên cứu đều khẳng định, đối với chị em phụ nữ, béo phì có thể dẫn đến tình trạng khó thụ thai. Với chị N.T.T. H, có thể chỉ số cơ thể (BMI) cao, cơ thể có quá nhiều mỡ, gây ra sự mất cân bằng nội tiết tố và các vấn đề với quá trình rụng trứng, là nguyên nhân của việc chậm mang thai (5-6 năm sau khi lập gia đình). Béo phì ở phụ nữ là một trong những tác nhân chính, tiềm ẩn các bệnh không lây như: tim mạch (chủ yếu là bệnh tim và đột quỵ); tiểu đường; rối loạn cơ xương (đặc biệt là viêm xương khớp - một bệnh thoái hóa vô hiệu hóa của các khớp); một số loại ung thư (nội mạc tử cung, vú và đại tràng). Bên cạnh đó, khoa học cũng đã chỉ ra rằng, trẻ có mẹ bị béo phì trong thai kỳ có nhiều khả năng bị béo phì hơn trong thời thơ ấu và niên thiếu. 

Vì những tác động rất tiêu cực đến sức khỏe nói chung và sức khỏe sinh sản nói riêng, đối với các bà mẹ béo phì, mặc dù trong suốt thời gian mang thai cũng cần rất nhiều năng lượng cho sự phát triển của bé, nhưng các mẹ nên sử dụng và dung nạp các loại chất dinh dưỡng lành mạnh từ rau, củ, chất béo chưa bão hòa (dầu thực vật)… hạn chế các loại thức ăn chiên xào. Bên cạnh đó, các mẹ bầu cũng cần tuân thủ:

- Kiểm tra sức khỏe tổng quát trước khi mang thai

- Có chế độ ăn uống hợp lý trong suốt thai kỳ. Quan niệm ăn cho 2 người thật sự không còn phù hợp với khoa học dinh dưỡng hiện nay.

- Tăng cường vận động thể thao, tập yoga dành cho bà bầu

- Kiểm soát thường xuyên cân nặng và tăng trưởng của cả mẹ bầu, thai nhi trong suốt thai kỳ.