Rùng mình nghề săn đá cảnh nơi rừng thiêng nước độc

Những người săn đá cảnh phải trèo đèo lội suối, trải qua nhiều hiểm nguy, thậm chí bỏ mạng nơi rừng thiêng nước độc để tìm được những viên đá có hồn.

Nghề chơi chẳng ít công phu
Một ngày đầu tháng 4, chúng tôi được đi cùng nhóm săn đá cảnh tại Di Linh (Lâm Đồng). Thị trấn thuộc cao nguyên Lâm Viên này là một trong những nơi thu hút người chơi đá cảnh, do sông suối chằng chịt, đồi núi đan xen thường là nơi ẩn mình của loại đá này.
Đoàn xe thồ chở chúng tôi băng qua những đoạn đường gập ghềnh, hiểm trở, đầy bụi đỏ của xứ sở cà phê. Địa điểm cả nhóm chọn lần này là bãi đá nằm dưới thác Khói, ngọn thác hùng vĩ thuộc sông Đại Đờn (thượng nguồn sông Đồng Nai).
Lưu Minh Trí, thành viên nhỏ tuổi nhất nhưng lại "máu lửa" nhất trong đoàn, cho biết: "Khi đã trót đam mê đá thì dù nơi ấy có xa và vất vả đến đâu, cũng quyết tìm đến cho bằng được. Có những chuyến săn đá tận rừng sâu, phải cuốc bộ cả ngày mới đến. Khi đó các thành viên phải mang theo lương thực, nước uống cắm trại luôn trong rừng. Những hiểm nguy nơi chốn "rừng thiêng nước độc" luôn rình rập những người săn đá. Năm 2013, cả hội vừa chia tay vĩnh viễn một người anh bị nước cuốn khi đi tìm đá. Vất vả, nguy hiểm là vậy, nhưng khi đã tìm được viên đá ưng ý thì bao mệt mỏi đều tan biến".
Gửi xe ở bìa rừng, chúng tôi vác ba lô cuốc bộ chừng 5km thì đến khúc sông đã chọn. Dòng sông vào đầu mùa mưa nước chảy cuồn cuộn, phù sa bazan sủi lên đỏ thẫm. "Nước chảy xiết quá, làm sao xuống mò đá được?". Nghe tôi thắc mắc, anh Lâm Trọng Tường - người lớn tuổi nhất trong đoàn - bật cười, vỗ vai: "Xuống sông lúc này khác nào tự vẫn. Đá cảnh phải tìm ở các nhánh suối đổ ra sông". Vừa nói anh vừa dẫn cả đoàn hướng về hạ nguồn con suối cách ngọn thác hơn 500m, nằm giữa hai vùng núi K Ben và K Ron.
Cuộc săn đá bắt đầu khi cả nhóm chọn được đoạn suối nông. Thấy tôi e dè, anh Tường khích lệ: "Không sao đâu, đoạn này cạn lắm, chú ý kẻo bị đá cắt chân". Dòng suối mát trong phút chốc đỏ ngầu vì bị "quấy rối". Các thành viên thi nhau mò hụp giữa con suối lổn nhổn đá, ai kiếm được viên đẹp là lại hú lên như Tazan.
Tranh thủ lúc nghỉ giải lao, anh Tường kể lại kỷ niệm đáng nhớ của mình. Năm 2000 trong một lần đi rừng, khi tắm suối vô tình nhặt được viên đá có hình thù như thiếu nữ đang nhảy múa trong đêm hội Tây nguyên. Thấy hay, anh đem về rửa sạch, đặt lên một gốc lũa và đặt tên là "Vũ điệu Tây nguyên". Năm 2003, tại Hội hoa xuân được tổ chức ở Đà Lạt, tác phẩm này đoạt giải nhất.
Lúc đó ông Bùi Đức Tầm - Chánh chủ khảo hội thi, một chuyên gia về đá cảnh của Việt Nam - ngỏ ý muốn mua lại, nhưng anh không bán. Tính đến nay, số lượng đá cảnh của anh đã hơn 400 - một "kho tàng" mà bất cứ tay chơi đá nào cũng mơ ước.
San da canh va nhung hiem nguy noi
 Người săn đá hụp lặn dưới sông Đại Đờn.
Hồn đá, hồn người
Anh Tường chia sẻ thêm: "Đá cảnh có rất nhiều trường phái như: Suiseki, Biseki, đá nghệ thuật, đá mài... Tuy nhiên, Suiseki được chuộng vì tạo hình từ sự bào mòn của nước ở các dòng sông suối, có độ cứng cao, bề mặt lạ, da bóng, phủ màu thời gian và điều quan trọng là hoàn toàn tự nhiên chứ không qua tác động của con người...
Mỗi viên đá cũng mê hoặc người chơi theo cách riêng của nó và đặt tên cho đá cũng là cách khám phá vẻ đẹp tiềm ẩn ấy. Tên không chỉ mô tả hình thể, mà còn toát lên cái hồn và mang câu chuyện của đá. Sự hấp dẫn của viên đá nằm ở khả năng cảm nhận của mỗi người, chỉ cần đổi hướng nhìn và đế đặt là thay cả "linh hồn" của đá. Do đó, cùng một viên đá có thể có rất nhiều tên gọi khác nhau. "Gọi mưa", "Sơn thủy hữu tình" hay "Lòng mẹ”... là những cái tên mà người say đá âu yếm đặt cho những "đứa con" của mình.
Ông Đoàn Giàu, thành viên lâu năm của Câu lạc bộ đá cảnh Di Linh, cho biết: "Với người chơi đá, đó là vật "vô ngôn" nhưng lại rất "hữu tình". Đá có thể "trò chuyện" với người bằng vẻ yên lặng trong mỗi góc độ ánh sáng, vệt nắng. Đó cũng là nghệ thuật tìm về sự bình yên trong tâm hồn sau những bộn bề lo toan cuộc sống".
Với những người chơi đá cảnh, đá là linh hồn, là đứa con tinh thần của họ. Có những tác phẩm được dân mê đá hỏi mua vài chục triệu đồng, nhưng chủ nhân cương quyết không bán. Cũng có người kinh tế khá lên nhờ đá cảnh. Trước đây, anh Nguyễn Thái Lý là một nông dân chân lấm tay bùn. Sau khi "bén duyên" với đá, anh đầu tư xưởng gỗ chuyên làm đế cho đá.
San da canh va nhung hiem nguy noi
 
Một viên đá đẹp còn phụ thuộc rất nhiều vào đế của đá, dân trong nghề gọi là Daiza. Đó là phiến gỗ được khắc dựa theo mặt đáy của viên đá, ôm sát mép đến từng chi tiết. Nhờ chăm chỉ học hỏi và có hoa tay, nên anh Lý được nhiều dân chơi đá tìm đến nhờ làm "chân" cho tác phẩm của mình. Ngoài ra, anh còn chung vốn mở cửa hàng trưng bày, bán đá cho khách du lịch, nhờ thế thu nhập cũng khá hơn.

Bi kịch cô gái qua tay 4 người đàn ông nơi xứ người

Dính phải bọn buôn người, sau 30 năm biệt tích, 4 lần làm “vợ” 4 người đàn ông nghèo vùng miền núi Trung Quốc, Hằng đã về đến quê nhà.

“Uống xong chai nước tôi lịm đi, nhưng vẫn mơ màng thấy mình được 2 người đàn ông kéo xuống một con thuyền để sang bên kia biên giới. Tỉnh lại, tôi thấy mình và 3 cô gái nữa đang ở dưới một tầng hầm của ngôi nhà cũ kỹ và không còn thấy bóng dáng bà Chất đâu nữa. Linh tính mách bảo mình đã bị 2 người đàn bà kia lừa bán sang Trung Quốc, tôi khóc và suy sụp hẳn”, chị Hằng nghẹn ngào.

Vì những khó khăn trong cuộc sống, chị Trần Thị Hằng (SN 1969, trú tại xã Hồng Sơn, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An) bị những kẻ buôn người lừa bán sang Trung Quốc với viễn cảnh một cuộc sống sung sướng, nhàn hạ. Sau bao nhiêu năm mòn mỏi đợi chờ, cuối cùng cô đã được trở về quê hương như một phép nhiệm màu của tạo hóa.

Giấc mơ đổi đời

Sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Hồng Sơn, huyện Quỳnh Lưu, cuộc sống gia đình Hằng luôn trong tình trạng chạy ăn từng bữa. Khó khăn, thiếu thốn là vậy nhưng trời lại phú cho cô vẻ đẹp mặn mà, dịu dàng và duyên dáng. Cô thôn nữ 15 tuổi với mái tóc dài đen óng, cặp mắt long lanh và đôi môi luôn tươi như hoa khiến bao trai làng say đắm, mơ ước lấy được cô về làm vợ.

Thế nhưng, đúng là “hồng nhan bạc phận”, cuộc đời cô đã rẽ sang một hướng khác với những thăng trầm, tủi nhục khi cô gặp bà Thi, bà Chất - hai kẻ chuyên buôn hàng chuyến từ chợ ra biên giới bán và kiêm luôn việc buôn bán người.

Bi kich co gái qua tay 4 nguòi dàn ong noi xu nguoi
 Chị Hằng bên người thân của mình ngày trở về quê hương.
Những lời tỉ tê, xu nịnh và viễn cảnh về một cuộc sống sung sướng, nhàn hạ được chúng vẽ ra trước mắt Hằng và cô đã bị thuyết phục. Mùa đông năm 1984, không kịp thông báo với gia đình, cô cùng 3 người nữa lên một chiếc ôtô cùng bà Chất, bà Thi để đến một nơi có cuộc sống “sung sướng”. Xe chạy một mạch đến Móng Cái (Quảng Ninh), bà Chất phát cho mỗi người một suất cơm và chai nước suối. Ăn uống xong thì ai nấy lịm đi không biết gì nữa. “Uống xong chai nước tôi lịm đi, nhưng vẫn mơ màng thấy mình được 2 người đàn ông kéo xuống một con thuyền để sang bên kia biên giới. Tỉnh lại, tôi thấy mình và 3 cô gái nữa đang ở dưới tầng hầm của một ngôi nhà cũ kỹ và không còn thấy bóng dáng bà Chất đâu nữa. Linh tính mách bảo mình đã bị 2 người đàn bà kia lừa bán sang Trung Quốc, tôi khóc và suy sụp hẳn”, Hằng nghẹn ngào.

Và rồi ở bên xứ người, cô bị nhốt trong hầm chứa, đem ra rao bán như một món hàng ở chợ, rồi 4 lần làm vợ người khác, có người bằng tuổi bố mình.

Cuộc sống nơi địa ngục trần gian

Sau khi tỉnh dậy, Hằng mới biết mình đã bị bà Chất bán cho một phụ nữ người Trung Quốc tên Lệ Lệ chuyên kinh doanh mua bán dâm, nhà chứa. Đêm đầu tiên, cô bị nhốt vào một phòng tối với một gã đàn ông trần như nhộng, hắn lao tới cô như con thú đã đói mồi lâu ngày. Cô kiên quyết chống trả và rồi nhận một trận đòn thừa sống thiếu chết từ mụ Lệ Lệ. Sau đó, cô không phải phục vụ khách mà chỉ bưng bê, được ăn ngon, mặc đẹp. Thế nhưng, mỗi ngày cô phải chứng kiến những kiểu tra tấn rùng rợn của bọn nhà chứa khi các cô gái không chịu đi khách. Chúng nung que sắt bỏ vào đùi cho thịt cháy xèo xèo bốc mùi khét lẹt, trói ngược đổ nước xà phòng vào miệng, buộc túm hai ống quần lại rồi thả rắn cho chui vào “chỗ kín”. Nhìn cảnh ấy, Hằng cứ run lên cầm cập.

Rồi cô được mụ Lệ Lệ bán cho một gã đàn ông tên Vương An làm vợ. Về “nhà chồng”, cô khóc lóc suốt bởi cảnh tủi nhục, ê chề của mình. Đêm đó, cô phải quặn mình phục vụ gã “chồng” rồi lịm đi lúc nào không biết. Nhục nhã hơn, ngày hôm sau, có 3 người bạn của “chồng” đến chơi và thay nhau cưỡng hiếp cô. Đêm sau, lại 3 tên khác đến khiến cô lả người, kiệt sức. Cô ra sức chạy trốn khỏi nô lệ tình dục của những tên háo sắc kia nhưng cuối cùng lại rơi vào tay Lệ Lệ.

Về lại “nơi làm việc” cũ, cô phải kiệt sức phục vụ khách để thu lại tiền cho mụ Lệ Lệ. Cô trở thành cái máy hút tiền và được Lệ Lệ chiều chuộng, nịnh bợ. Có ngày, cô phục vụ đến 30 lượt khách. Thời gian sau, thấy cô ngoan ngoãn “làm việc”, Lệ Lệ nới lỏng giám sát. Một hôm, tối trời, cô bỏ trốn, chạy bán sống bán chết qua nhiều ngọn đồi rồi lạc vào một bãi tha ma. Khát quá, thấy cái huyệt vừa cải táng có nước, cô lê đến uống ừng ực rồi lịm đi. Cô tỉnh lại khi cơn đói hành hạ, trườn đến ngôi mộ mới, trên có bát cơm cúng cho vào miệng nhai ngấu nghiến. Một thiếu phụ đi thăm mộ thấy cô sợ líu cả lưỡi, miệng ú ớ kêu “Ma… ma”. Nghe tiếng mẹ đẻ, cô bật khóc nức nở vì mừng. Thế nhưng, sau đó, chính thiếu phụ này đã bán cô cho một thanh niên tên Li Hao. Và cô lại phải cắn răng phục vụ 3 bố con nhà Li Hao. Đắng cay, nhục nhã, ý định chạy trốn lại trỗi dậy trong cô.

Cô lại trốn chạy và 2 lần rơi vào cạm bẫy của trò buôn người nơi xứ người, phải làm vợ một người đàn ông tên Vương Mỗ bằng tuổi bố mình, sinh được 2 gái, 1 trai, rồi bị bán cho một người đàn ông chừng 65 tuổi với 400 nhân dân tệ.

Ngày về cứ ngỡ là giấc mơ

Cuộc sống nơi đây tuy vất vả nhưng khá hoà đồng, cô được nhiều người quan tâm, giúp đỡ. Trong số đó, có bà tên Tâm (người Quảng Xương, Thanh Hoá) - bị bán sang đây lấy chồng Trung Quốc đổi tên là Hồng Hồng - mỗi năm thường về Việt Nam buôn bán 6, 7 lần. Khi nghe Hằng kể về cuộc đời mình, bà Tâm hứa lúc mang hàng về Việt sẽ cho theo, chồng Hồng Hồng cũng nhất trí cho Hằng theo về thăm quê và cung cấp tiền phí. Sau nhiều lần tìm kiếm từ những thông tin mù mờ mà Hằng cung cấp, bà Tâm đã tìm được gia đình cô ở xã Hồng Nguyên, huyện Quỳnh Lưu.

Ngày về, cô như chết lặng khi biết tin bố mình do quá thương nhớ con gái đã qua đời vì bạo bệnh cách đây 10 năm, thắp nén hương lên bàn thờ người cha, cô khóc trong đau đớn: “Con về rồi, bố tha lỗi cho con. Con gái bất hiếu để bố mẹ các anh phải lo lắng nhiều”. Gia đình hiện tại của Hằng còn 2 em trai, 1 anh trai và 3 em gái. Thương bố mẹ già bao nhiêu, cô càng căm phận những kẻ đã bán mình sang xứ người gấp vạn lần hơn thế. Cô quyết tâm vạch mặt tố cáo hành động đê hèn, vô nhân tính của những kẻ đó ra trước pháp luật. Tuy nhiên, chúng đều đã chết do bị đánh trong một vụ móc túi ở chợ Giát.

Cuộc hội ngộ của người anh, người chị và người em sau gần 30 năm lưu lạc thấm đẫm nước mắt. Anh chị của Hằng giờ tóc đã điểm màu mun, những nét nhăn bắt đầu hằn trên khuôn mặt hao gầy vì chờ đợi. Ngần ấy năm, tưởng như cô đã ra đi vĩnh viễn nhưng thật không ngờ cuộc đời vẫn còn những điều kỳ diệu. Sau gần 30 năm biệt tích, 4 lần làm “vợ” 4 người đàn ông nghèo vùng miền núi Trung Quốc, Hằng đã về đến quê nhà đoàn tụ với gia đình trong niềm vui vô tận.

Bí thư chi bộ kiêm bảo vệ thóa mạ giáo viên để ra oai

Bí thư chi bộ TT Kỹ thuật tổng hợp - Hướng nghiệp Thường Tín gây bức xúc khi buông lời thóa mạ, mạt sát giáo viên trước hội đồng nhà trường.

Người có những lời lẽ mạt sát giáo viên của Trung tâm là ông Trịnh Đăng Xuân - Bí thư Chi bộ Trung tâm. Điều đáng nói, bản thân ông Xuân trên cương vị là Bí thư chi bộ, nhưng lại không có chuyên môn, mà chỉ là một bảo vệ của Trung tâm.
Bí thư chi bộ hành xử kiểu... chợ búa

Ảnh những dòng kênh chết hồi sinh tuyệt vời ở TP HCM

Những dòng kênh chết hôi thối giữa lòng TP HCM giờ đây là nơi người dân ra ngắm cảnh, dạo mát và hít thở không khí trong lành.