Nỗi khổ của phụ nữ ở những nơi không có nhà vệ sinh

Khi được hỏi “Hiện gia đình chị em nào chưa có nhà vệ sinh?”, gần một nửa trong tổng số gần 30 người có mặt ngại ngùng giơ cánh tay lên.

Mỗi đêm cần ra ngoài, lại phải mang theo dụng cụ
Chia sẻ về cuộc sống không có nhà vệ sinh (chị em nơi đây quen gọi là nhà cầu), chị Neáng Thu (39 tuổi ở ấp Tân Hiệp, xã Tân Lợi) cho biết, gia đình chị có 4 người, gồm 2 vợ chồng và 2 con. Nhà chị rất nghèo, vợ chồng đều đi làm mướn với các công việc như bẻ xoài… với tiền công kiếm được chừng 170-200 ngàn/ngày. Do việc thất thường ngày có ngày không nên nhà chị hay thiếu ăn, chỗ ở tồi tàn. Mới đây, được nhà nước hỗ trợ 15 triệu đồng, vợ chồng đang cố gắng làm lại nhà để ở, còn công trình vệ sinh thì vẫn chưa đủ khả năng để tính đến… Vì vậy, đã mấy chục năm lấy chồng, sinh con, đến nay chị Thu chưa một lần được sở hữu nhà cầu.
Kề về điều này, chị ngượng ngùng cho biết: “Cứ mỗi lần có nhu cầu, cả nhà tui đều phải chạy ra bên ngoài. Nếu ban ngày thì thuận tiện vì có thể chạy ra khoảng rừng sau nhà, chọn chỗ tự do, thoải mái và khi đi thì không cần mang theo gì cả. Sau khi giải quyết xong thì cũng có thể bứt luôn lá cây để vệ sinh. Nhưng ban đêm thì rắc rối hơn một chút vì không dám đi xa mà phải đi ngay ở vườn gần nhà. Khi đi, cũng phải lách cách mang theo các dụng cụ như cuốc, xẻng, que sắt… để đào đất chôn xuống. Nếu có con nhỏ thì mẹ lại phải thức giấc, đưa đi rồi lúc về dùng nước rửa ráy lại cho con”.
Noi kho cua phu nu o nhung noi khong co nha ve sinh
Theo chị Neáng Thu: "Do nhà nghèo không có đất, không có tiền nên không làm nhà cầu". 
Tương tự, với chị Neáng Dân (49 tuổi) ở khóm An Bình, Thị trấn Ba Chúc cũng là người từ khi sinh ra đến giờ, chưa từng biết đến nhà vệ sinh, chưa từng dám đi nhờ vào nhà ai vì ngại. Được biết, tại khóm An Bình của chị với khoảng 800 hộ với hơn 3.090 khẩu thì hiện vẫn còn đến gần 300 hộ chưa có nhà vệ sinh.
Với riêng gia đình mình, chị Neáng Dân kể: “Nhà tui nghèo, từ nhỏ thấy ông bà, cha mẹ đi vệ sinh tự do, đến mình cũng vậy, rồi sau đó con mình cũng vậy... Khi đi làm mướn, tui “giải quyết” ngay ngoài ruộng, khi về nhà thì thường chạy ra ngoài cánh đồng cách nhà chừng vài trăm mét”.
Mặc dù đây đã là thói quen, kiểu như chuyện thường nhật, nhưng với chị Neáng Dân, nhiều khi cũng bị rơi vào những rắc rối khó lường: “Có những lần, nửa đêm trời mưa to, tui tự nhiên lại đau bụng tiêu chảy, thế là vẫn phải mở cửa, mang nón chạy tít ra ngoài chứ không thể đi bậy gần nhà vì sợ người ta kêu mất vệ sinh, người ta mắng mỏ thì ngượng. Hoặc cũng có nhiều lần tui đi làm mướn trên đồng, sau khi giải quyết xong thì mới nhớ người ta vừa phun thuốc diệt sâu, diệt ốc nên trong nước rất độc, mình không dám dùng nước đó để vệ sinh, đành bứt tạm bụi cỏ, khi về nhà thì bị ngứa mãi, viêm nhiễm phụ khoa…”.
Noi kho cua phu nu o nhung noi khong co nha ve sinh-Hinh-2
Chị Neáng Dân trước căn nhà chật chội và không có đất để làm nhà vệ sinh. Chị bảo, nếu có ai dắt chị vào nhà vệ sinh, chị cũng sợ không dám vào vì không biết cách sử dụng". 
Phóng uế tự do để dòm trăng thanh, gió mát
Theo ông Châu Thanh Long, Trưởng ấp Tân Hiệp, xã Tân Lợi: “Tình trạng các gia đình không có nhà đi cầu còn khá phổ biến, đặc biệt là trong đồng bào dân tộc Khmer. Đây cũng là một trong những vấn đề gây bức xúc vì làm ảnh hưởng đến sức khỏe, mất vệ sinh, ô nhiễm môi trường sống của gia đình và những người xung quanh. Lý do là bởi dân trong ấp nghèo, nhà ở chằng chịt, san sát nhau, đất hẹp, trong khi đó, nếu nhà nước có hỗ trợ người dân xây nhà vệ sinh thì yêu cầu phải cách xa nơi ở ít nhất 10m nên có nhiều nhà không đủ điền kiện để xây.
Ngoài ra, do nhận thức của người dân về vấn đề vệ sinh môi trường vẫn còn hạn chế, bà con còn dựa vào tập quán, thói quen không thích sử dụng nhà vệ sinh…, có nhiều người cho rằng, việc phóng uế tự do như vậy thì thoái mái dòm trăng, gió mát mẻ. Trong khi đó, mọi người xung quanh cũng coi đây là việc tế nhị, khó nói, nên không ai lên tiếng dèm pha hay nhắc nhở.
Khi có đám chị em đang ngồi với nhau, mà thấy có chị đột nhiên đứng dậy, lặng lẽ rời đi, là mọi người hiểu ngay chị ấy chạy ra vườn, ruộng để giải quyết nhu cầu nên không bao giờ tò mò, khuyên can. Vì vậy, việc tuyên truyền, vận động để thay đổi nhận thức, thói quen lâu đời trong đồng bào là tương đối khó nói, tế nhị, phải làm từ từ”.
Noi kho cua phu nu o nhung noi khong co nha ve sinh-Hinh-3
Không sử dụng nhà vệ sinh từng bị cho là "đặc trưng của miền Tây" và nhiều người dân ở đây cho rằng, do thói quen sinh hoạt đã tồn tại lâu đời nên khó mà bắt họ thay đổi trong ngày một, ngày hai... 

Sự thật "sốc" về nhà vệ sinh tàu hỏa giá 230 triệu

Nhà vệ sinh trên tàu hỏa, có giá trị khó tin 230 triệu đồng/bộ, cùng với mùi hôi thối kinh khủng.

Hành khách bức xúc vì mùi hôi thối

Một người đàn ông chết ở nhà vệ sinh công cộng HN

Một người đàn ông được phát hiện chết trong nhà vệ sinh công cộng thuộc phường Bạch Đằng. Người này được cho là đang trong thời gian cai nghiện.

Một người đàn ông được phát hiện đã chết trong nhà vệ sinh công cộng của khu dân cư thuộc phường Bạch Đằng (quận Hai Bà Trưng, Hà Nội) vào khoảng 12 giờ 15 phút trưa 11/9.

64 năm ngày Giải phóng Thủ đô: Ký ức ngày trở về

Đã 64 năm qua đi, ngày Giải phóng Thủ đô đã là những ký ức sâu sắc, in đậm trong tâm trí của nhiều người - những nhân chứng trực tiếp có mặt tại Hà Nội trong ngày tiếp quản.

Phóng viên PetroTimes lược ghi những câu chuyện, ký ức của các nhân chứng lịch sử tại triển lãm ảnh “Hà Nội những khoảnh khắc tháng 10/1954” nhân kỷ niệm 64 năm ngày Giải phóng Thủ đô diễn ra tại Di tích Đoan Môn, Hoàng Thành Thăng Long - Hà Nội.

64 nam ngay Giai phong Thu do: Ky uc ngay tro ve
 Thiếu tướng Vương Thừa Vũ, Chủ tịch Ủy ban Quân chính đọc Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi đồng bào Thủ đô, ngày 10/10/1954.
Ngày 10/10/1954 ghi mốc son trong lịch sử của cả nước nói chung và của Thủ đô Hà Nội nói riêng, đánh dấu kết thúc 80 năm đô hộ của thực dân Pháp. Còn đối với thế hệ những người lính đầu tiên của Trung đoàn Thủ đô và người dân Hà Nội thì ngày 10/10/1954 thực sự là ngày trở về lịch sử, Hà Nội bước sang một trang mới. Dù đã trải qua 64 năm nhưng ký ức những ngày đáng nhớ này vẫn đậm nét trong lòng quân và dân Thủ đô.
64 nam ngay Giai phong Thu do: Ky uc ngay tro ve-Hinh-2
 Đại tá Nguyễn Trọng Hàm một trong số những người đầu tiên về tiếp quản Thủ đô.

Đại tá Nguyễn Trọng Hàm (97 tuổi), Chiến sỹ Trung đoàn Thủ đô xúc động nhớ lại: “Tôi lúc đó là anh cán bộ Thủ đô, cũng là người chiến đấu giữ Hà Nội 60 ngày đêm (năm 1946-1947), nên được tổ chức chọn vào phái đoàn Bộ Tổng Tham Mưu về tiếp quản. Tối ngày 9/10/1954, cả Hà Nội được giới nghiêm, đường phố vắng bóng người qua lại, chỉ có bộ đội đi tuần tra. Đến 5h sáng (hết giờ giới nghiêm) thì tất cả các phố xá, các ngõ ngách, cờ quạt được treo lên, người ra đường rất đông, mặc đẹp, sang trọng như ngày Tết để đón bộ đội về tiếp quản.

14h ngày 10/10, bộ đội bắt đầu di chuyển từ hồ Hoàn Kiếm đi qua Hàng Đào, Hàng Ngang, lên phố Quán Thánh, Cửa Bắc và tiến vào trong sân vận động Cột Cờ để làm lễ chào cờ. 15h, từ Nhà Hát Lớn, một hồi còi báo hiệu được kéo lên; chiến xe đưa đồng chí Vương Thừa Vũ và đồng chí Trần Duy Hưng tiến vào trung tâm của lễ đài. Đồng chí Vương Thừa Vũ chỉ huy trực tiếp buổi lễ, tuyên bố ý nghĩa quan trọng lễ chào cờ, lần đầu tiên Quốc kỳ Việt Nam tung bay trên nóc Cột Cờ Hà Nội. Đồng chí hô “Nghiêm! Chào cờ! Chào!” thì tất cả bộ đội nâng súng lên đặt tay vào báng; Mọi người đều ở tư thế rất nghiêm trang. Đồng chí Đinh Ngọc Liên chỉ huy đội quân nhạc nổi nhạc bài Quốc ca. Kết thúc buổi lễ, đồng chí Vương Thừa Vũ đọc lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi đồng bào Thủ đô nhân ngày giải phóng".

64 nam ngay Giai phong Thu do: Ky uc ngay tro ve-Hinh-3
 Chiến sĩ Trung đoàn Thủ đô Đặng Văn Tích

Ông Đặng Văn Tích (86 tuổi) chiến sĩ Trung đoàn Thủ đô nhớ như in ngày 10/10: “Chúng tôi đi chiến đấu thì nhớ Hà Nội lắm, và thường hát bài Ngày về: “Có đoàn người lên đóng trên rừng sâu. Đêm nay mơ thấy tiến về Hà Nội…”. Hồi đó, chúng tôi đóng quân ở Định Hóa, Thái Nguyên, chúng tôi còn lấy tre, nứa, lá làm thành hình tháp Rùa ở giữa một khu ruộng để ngắm cho đỡ nhớ. Có thể nói là ngày nào, đêm nào, chúng tôi cũng thế, cũng nhớ về Hà Nội. Nên khi trở về Hà Nội (10/10/1954) thấy không khí vui tươi, phấn khởi của đồng bào và các cổng chào được dựng lên khắp nơi thì chúng tôi sung sướng lắm. Lúc đó, tôi đang ngồi trên ô tô, cũng cố nhoài người ra để vẫy chào mọi người. Rất sung sướng và tự hào!

Buổi chiều hôm đó, tất cả các đơn vị tập kết tại sân Cột Cờ để làm lễ chào cờ chiến thắng. Anh Vương Thừa Vũ làm chủ lễ. Anh hô vang khẩu hiệu chào cờ thì nhạc Quốc ca được đoàn quân nhạc cất lên. Chúng tôi ai cũng trong tư thế nghiêm trang hướng về lá Quốc kỳ".

64 nam ngay Giai phong Thu do: Ky uc ngay tro ve-Hinh-4
 Nhạc sĩ Nguyễn Văn Quỳ (Đỗ Quyên), Chiến sĩ Trung đoàn Thủ đô chia sẻ về cảm nhận khi tiến quân về tiếp quản Thủ đô 10/10/1954.

Chiến sỹ Trung đoàn Thủ đô Nhạc sĩ Đỗ Quyên (95 tuổi) nhớ lại: Hồi đó, hoạt động tại nội thành, tổ chúng tôi gồm 3 người, anh Sinh, anh Thành và tôi – Đỗ Quyên. Để chuẩn bị cho công tác đón đoàn quân giải phóng tiến về, chúng tôi quán triệt: phải làm sao để đón bộ đội về thật linh đình, ý nghĩa và nhất định phải có nhạc, hát. Vì biết viết nhạc nên tôi được giao nhiệm vụ sáng tác bài hát mới. Tiếp thu ý kiến, tôi đã sáng tác được một số bài như: “Hà Nội giải phóng”, “Hoan hô giải phóng Thủ đô”. Sau đó, chúng tôi phải phổ biến các bài hát cho các bạn học sinh, sinh viên tại Hà Nội. Thời điểm đó, quân Pháp chưa rút hết nên rất khó tập hợp đông người. Chúng tôi chỉ có thể phổ biến theo từng nhóm 4-5 người. Mỗi nhóm được phổ biến xong lại phổ biến tiếp cho những người khác. Tổng cộng, chúng tôi đã phổ biến lời các bài hát cho được gần 200 người.

Ngày đón bộ đội về, chúng tôi xếp thành 4 hàng, tập trung tại quảng trường Đông Kinh Nghĩa Thục. Tôi đánh ghita, mọi người cùng hát. Người dân xung quanh thấy thế cũng đến rất đông; Khi quân đội đi qua, anh em chúng tôi cùng hô vang quân đội giải phóng Thủ đô và hát: “Hoan hô các anh về đây, hoan hô các anh về đây giải phóng Thủ đô…”. Nhưng lúc đó vui quá, sướng quá, anh em hò reo, về sau mọi người cứ hát đi hát lại mãi câu: “Hoan hô các anh về đây!”.

64 nam ngay Giai phong Thu do: Ky uc ngay tro ve-Hinh-5
 Bà Lê Thị Lương, 89 tuổi, nhân chứng ngày 10/10/1954

Nhớ về Giải phóng Thủ đô 10/10, bà Lê Thị Lương kể: "Sau ngày 17/2/1947, cả Trung đoàn Thủ đô rút khỏi Hà Nội, phụ nữ chúng tôi được cử đi công tác tại các đơn vị khác. Tôi được cử lên công tác tại Tây Bắc. Tôi còn rất nhớ, vào khoảng tháng 7/1954, khi chúng tôi vào cuộc họp tại đơn vị, Đại đội trưởng tuyên bố quân đội ta đã chiến thắng và sẽ sớm về tiếp quản Thủ đô. Cả đơn vị reo hò ầm ĩ lên, mừng quá, cảm xúc của chúng tôi lúc bấy giờ rất bất ngờ, vui sướng. Tôi được cơ quan phổ biến, đáng lẽ tôi sẽ được về tiếp quản Thủ đô, vì tôi là người Hà Nội, nhưng lúc đó, Tây Bắc đang thiếu giáo viên nên tôi được đề nghị ở lại.

Đặc biệt, tôi cũng có niềm vui riêng của mình với tin chiến thắng. Tôi và “ông nhà” tôi yêu nhau, chờ đợi 6 năm trời. Khi yêu, chúng tôi hẹn nhau rằng: khi nào kháng chiến thành công thì làm đám cưới, còn chưa thành công thì chưa cưới. Nên, ngày mồng 10 giải phóng thủ đô, thì 31/10 chúng tôi tổ chức lễ cưới. Đám cưới ở Tây Bắc chả có gì đâu, chỉ có chuối, lạc, chè; bộ đội và giáo viên tổ chức cho chúng tôi. Đây vừa là niềm vui chung vừa là vui riêng vậy".

64 nam ngay Giai phong Thu do: Ky uc ngay tro ve-Hinh-6
 Nhà sử học Lê Văn Lan, 82 tuổi, nhân chứng ngày 10/10/1954

Bồi hồi nhớ lại khoảnh khắc lịch sử của 64 năm về trước, nhà sử học Lê Văn Lan chia sẻ: "Năm 1954, tôi 18 tuổi, đang là học sinh năm Đệ nhị chương trình Tú tài văn chương ở trường Chu Văn An. Hà Nội thời đó là năm cuối của người Pháp tạm chiếm, và theo quy định, tôi phải đi lính cho người Pháp. Vì là học sinh Tú tài, nên tôi sẽ có hai con đường: một là vào trường Sĩ quan Thủ Đức; hai là vào trường Võ bị Đà Lạt. Dĩ nhiên, gia đình tôi, đặc biệt là mẹ tôi hoàn toàn không muốn tôi đi theo con đường đó. Bà đã chuẩn bị rất nhiều lối thoát cho tôi, kể cả việc sửa giấy khai sinh để thay đổi tuổi, nhằm trì hoãn việc đó. Nếu đi lính, rất có thể tôi phải cầm sung chiến đấu, bắn vào những người anh em, bạn bè của mình. Và chiến thắng Điện Biên Phủ, rồi Hiệp định Giơ-ne-vơ, giải phóng Thủ đô đã thay đổi tất cả.

Có thể nói, ngày 10/10 có ý nghĩa rất lớn đối với toàn quốc và Hà Nội. Miền Bắc tiến lên con đường Xã hội chủ nghĩa, làm hậu phương vững chắc cho miền Nam. Trong lịch sử, thành Thăng Long cũng có nhiều lần vẻ vang như thế. Nhưng lần này, ở thời hiện đại, chiến thắng này là sự kết tinh của truyền thống, sự cố gắng và cả sự hy sinh từ nghìn năm lịch sử của Thăng Long – Hà Nội. Nó có ý nghĩa quan trọng đối với mỗi người dân Việt Nam, người Hà Nội, trong đó có tôi".