Nếu Mặt Trời đột ngột biến mất, chuyện gì sẽ xảy ra?

Nếu không có Mặt Trời giữ Trái Đất trên quỹ đạo, hành tinh của chúng ta có thể sẽ bắt đầu trôi vào không gian. Trong khi đó nhân loại phải cố gắng sống sót một cách tuyệt vọng.

Khoảng 4,5 tỷ năm trước, hệ Mặt Trời được hình thành sau khi một đám mây bụi và khí khổng lồ sụp đổ. Hệ Mặt Trời gồm có Mặt Trời và các hành tinh. Trong đó, Mặt Trời là ngôi sao lớn tới mức trọng lực của nó có thể kéo và giữ rất nhiều hành tinh, sao chổi và cả thiên thạch quay quanh nó. Điều này có thể thấy rằng Mặt Trời có vai trò rất quan trọng.

Nếu Mặt Trời đột ngột biến mất, có khả năng Trái Đất sẽ đi vào quỹ đạo xung quanh một ngôi sao khác. Đó là ngôi sao có thể cung cấp ánh sáng và nhiệt lượng tương tự như Mặt Trời. Tuy nhiên, cho đến khi điều đó xảy ra thì tất cả con người có thể đã biến mất từ lâu.

Trong khi đó, trên thực tế, ánh sáng mất khoảng 8 phút rưỡi để đi từ Mặt Trời đến Trái Đất. Do đó, nếu Mặt Trời biến mất, chúng ta vẫn sẽ có 8 phút rưỡi trước khi Trái Đất bị chìm vào trong bóng tối. Ngoài ra, điện cũng sẽ giúp thắp sáng trong một thời gian.

Neu Mat Troi dot ngot bien mat, chuyen gi se xay ra?

Nếu Mặt Trời biến mất thì có thể gây ảnh hưởng rất lớn tới Trái Đất. Ảnh: SciTechDaily

Một vấn đề đáng lo ngại khác sẽ xảy ra nếu Mặt Trời biến mất. Đó là phá vỡ quỹ đạo của những thiên thể trong hệ Mặt Trời. Do lực hấp dẫn của Mặt Trời biến mất nên tất cả các hành tinh sẽ lao thẳng về phía trước.

Thế nhưng Trái Đất sẽ lạnh đi rất nhanh. Do đó, nếu biết trước ngày Mặt Trời sẽ sụp đổ, nhân loại có thể sẽ phải chuẩn bị cho một kịch bản sinh tồn trong 1.000 năm. Điều này có thể xảy ra nếu chúng ta có đủ nguồn lực để duy trì trong khoảng thời gian dài đó.

Trên thực tế, chỉ cách Trái đất vài mét, hành tinh của chúng ta duy trì ở nhiệt độ khoảng 17 độ C. Do đó, nếu con người có đủ thời gian để chuẩn bị, nền văn minh có thể tiếp tục tồn tại bằng cách di chuyển xuống lòng đất. Con người sẽ sống trong một mạng lưới boongke kiên cố khổng lồ.

Trong vòng 1 tuần sau khi Mặt Trời biến mất, nhiệt độ ở bề mặt Trái Đất sẽ giảm xuống -17,8 độ C. Sau đó, trong vòng 1 năm, nhiệt độ sẽ giảm mạnh xuống khoảng -73,3 độ C. Khi đó, các đại dương trên thế giới sẽ bắt đầu đóng băng từ trên xuống.

Khi không có ánh sáng Mặt Trời, quá trình quang hợp sẽ dừng lại. Điều này sẽ khiến hầu hết thực vật sẽ nhanh chóng chết. Những vẫn có một số cây lớn có thể tồn tại thêm vài thập kỷ mà không cần đến quang hợp.

Trong vòng 1.000 năm, bầu khí quyển của Trái Đất cũng sẽ sụp đổ. Lúc bấy giờ, những thứ còn sót lại ở trên bề mặt sẽ phải tiếp xúc với bức xạ vũ trụ và tác động của thiên thạch.

Vậy, nếu Trái Đất lớn như Mặt Trời thì điều gì sẽ xảy ra?

Mặt Trời chiếm tới 98% khối lượng của toàn bộ hệ Mặt Trời. So với hành tinh dày đặc nhất là Trái Đất, Mặt Trời lớn gấp 1,3 triệu lần về thể tích.

Theo các nhà khoa học, Trái Đất sẽ trở thành nơi rất khác nếu như có cùng kích thước với Mặt Trời. Cụ thể, nếu Trái Đất lớn bằng Mặt Trời về cả kích thước và khối lượng, thì không chỉ gây nguy hiểm cho sự tồn tại của con người mà còn làm phá vỡ toàn bộ hệ Mặt Trời.

Neu Mat Troi dot ngot bien mat, chuyen gi se xay ra?-Hinh-2

Nếu Trái Đất lớn như Mặt Trời, thậm chí là lớn hơn, thì có thể phá vỡ toàn bộ hệ Mặt Trời. Ảnh minh họa

Chúng ta cũng sẽ mất Mặt Trăng theo cách nào đó. Khi Trái Đất trở nên nặng hơn, lực hấp dẫn của hành tinh này cũng mạnh hơn. Trong trường hợp này, lực hấp dẫn ở trên Trái Đất sẽ mạnh gấp 28 lần hiện tại.

Vì sao hệ Mặt Trời lại chuyển động như bây giờ? Nguyên nhân là do Mặt Trời có khối lượng lớn vượt trội. Nhờ vậy, lực hấp dẫn áp đảo đã ép các hành tinh phải vào quỹ đạo của nó.

Thế nhưng nếu Mặt Trời và Trái Đất đều chiếm tới 49% khối lượng của hệ Mặt Trời, thì điều này có thể dẫn tới sự hình thành của một loại hệ thống nhị phân. Trong đó, Mặt Trời và Trái Đất quay quanh nhau.

Lúc bấy giờ, quỹ đạo của các hành tinh khác ở trong hệ Mặt Trời chắc chắn cũng sẽ bị ảnh hưởng. Lực hấp dẫn mạnh hơn đáng kể cũng khiến Trái Đất tiềm ẩn nguy cơ về việc va chạm với tiểu hành tinh cao hơn.

Ngoài ra, sẽ còn rất nhiều điều phải lo lắng về những tiểu hành tinh. Ngoài ra, các vệ tinh nhân tạo của con người trong không gian cũng có thể rơi xuống Trái Đất. Trong khi đó, nhà cửa và cầu đường có thể sẽ bị sụp đổ dưới áp lực trọng trường gia tăng.

Chỉ có những cây thấp và thân dày mới đứng vững. Bởi vì những cây cao khó chịu được trọng lượng tăng thêm.

Lực hấp dẫn tăng sẽ gây ảnh hưởng tới mỗi người như thế nào?

Con người cũng sẽ nặng hơn đáng kể và gặp khó khăn trong việc đi lại. Hãy tưởng tượng, nếu bạn nặng 50kg trên Trái Đất bây giờ, bạn sẽ cảm thấy như nặng 1.400kg khi ở trên Trái Đất lớn như Mặt Trời.

Đặc biệt, khi lực hấp dẫn tăng lên, thời gian sẽ bị chậm lại. Do đó, con người có thể sống lâu hơn, nhưng đó có lẽ là một cuộc đời dài nằm trên giường với những cơn đau nhức.

May mắn rằng chúng ta không cần lo lắng về cơn ác mộng này, bởi vì Trái Đất sẽ không bao giờ lớn bằng Mặt Trời. Thay vào đó, thực tế cho thấy Trái Đất của chúng ta đang nhỏ đi. Bầu khí quyển của Trái Đất đang bị rò rỉ khiến hành tinh xanh mất hàng trăm tấn khối lượng vào không gian mỗi ngày.

DNA trong răng cổ đại tiết lộ lịch sử tiến hóa virus herpes

Chủng HSV-1 của virus herpes vốn được cho là đã xuất hiện ở châu Phi hơn 50.000 năm trước. Nhưng dữ liệu mới, công bố trên tạp chí Science Advances, chỉ ra rằng nó chỉ mới xuất hiện khoảng 5.000 năm trước, trong thời đại đồ đồng.

Virus herpes, hay còn gọi là bệnh mụn rộp, gồm hai chủng HSV-1 và HSV-2, gây ra các triệu chứng nhiễm trùng da, các vết loét hoặc phá hủy cấu trúc của tế bào ở mắt, lưỡi, cổ họng, môi, bộ phận sinh dục và các bộ phận khác trong cơ thể. Herpes có thể gây bệnh ở người, bất kể giới tính và tuổi tác, và có thể dẫn đến các biến chứng nghiêm trọng, nhưng đặc biệt nguy hiểm ở trẻ sơ sinh. Virus này thường ẩn náu trong hệ thần kinh ở trạng thái không hoạt động, trước khi di chuyển vào máu và bùng phát thành vết loét. Ngày nay, HSV-1 đã lây nhiễm cho khoảng 2/3 dân số toàn cầu dưới 50 tuổi.
Răng là kho báu DNA cổ đại vì cấu trúc tinh thể của nó có khả năng bảo vệ các phân tử sinh học khỏi bị thoái hóa. Trong thập kỷ qua, các nhà khoa học đã sử dụng các công nghệ giải trình tự ngày càng chính xác để từ DNA tìm thấy trong răng mà tái tạo bộ gen của người và động vật từ xa xưa - trong đó lâu đời nhất là voi ma mút đã chết cách đây 1,6 triệu năm. Trong quá trình này, họ đã tìm ra nhiều vật liệu di truyền của vi khuẩn và virus được bảo tồn trong răng. Các răng đều có mạch máu ở gốc, vì vậy khi người hoặc động vật chết, răng trở thành kho lưu trữ bất kỳ mầm bệnh nào có trong máu tại thời điểm chết.
Năm 2013, các nhà khoa học đã sử dụng DNA chiết xuất từ răng để xác nhận rằng bệnh dịch hạch Justinian, tràn qua Địa Trung Hải và Bắc Âu vào thế kỷ thứ sáu, là đợt bùng phát lớn đầu tiên của vi khuẩn dịch hạch Yersinia pestis. Và vào tháng 6/2022, một nhóm các nhà nghiên cứu khác cho biết, chủng Yersinia pestis gây ra đại dịch Cái chết Đen - giết chết hơn 60% dân số một số vùng Âu-Á vào thế kỷ XIV - có thể đã phát triển ở Kyrgyzstan ngày nay, dựa trên cơ sở DNA trong răng được tìm thấy trong vùng đó.
Nghiên cứu DNA cổ đại cũng cho thấy lịch sử của các mầm bệnh ít gây chết người hơn, chẳng hạn như herpes. Năm 2016, nhà sinh học phân tử khảo cổ Christiana Scheib tại Đại học Tartu Estonia và các đồng nghiệp tình cờ phát hiện các chuỗi di truyền có vẻ khớp với HSV-1 khi đang tìm kiếm dấu vết của Yersinia pestis trong chiếc răng 600 năm tuổi của một thiếu niên.
Cho đến thời điểm đó, “chưa có DNA virus herpes cổ đại nào từng được công bố”, Scheib nói. Bộ gen herpes lâu đời nhất được ghi nhận đã được phân lập từ một người sống ở New York vào năm 1925. Khám phá này khiến nhóm Scheib tiếp tục tìm kiếm các dấu hiệu của bệnh herpes ở những bộ hài cốt khác.
Sau khi phân loại hàng chục hài cốt, các nhà nghiên cứu cuối cùng đã tìm thấy và trích xuất DNA virus herpes từ răng của ba người chết vì nhiễm trùng cấp tính, trong đó có một phụ nữ trẻ được chôn cất ở ngoại ô Cambridge, Vương quốc Anh, vào thế kỷ thứ sáu.
Bằng cách đánh giá các đột biến di truyền phát triển giữa bốn bộ gen cổ đại và so sánh chúng với các chủng HSV-1 hiện đại, nhóm nghiên cứu suy luận rằng tất cả chúng đều có một tổ tiên chung xuất hiện cách đây khoảng 5.000 năm. Trước đó, đã có các chủng herpes khác nhau lưu hành, nhưng 5.000 năm trước HSV-1 xuất hiện và lập tức chiếm ưu thế hoàn toàn. Trước nghiên cứu này, HSV-1,gây lở loét môi ở người, từng được cho là đã xuất hiện ở châu Phi cách đây hơn 50.000 năm.

Các nhà nghiên cứu tìm thấy DNA virus herpes gây bệnh lở loét và mụn rộp trong răng một phụ nữ sống vào thế kỷ 18.
Chưa rõ chính xác điều gì đã khiến cho HSV-1 lây nhiễm vượt trội so các phiên bản cũ. Nhưng theo Scheib, phân tích của họ cho thấy HSV-1 xuất hiện trong một giai đoạn di cư ồ ạt trong thời kỳ đồ đồng, và có thể virus đã di chuyển từ lục địa Âu Á đến các vùng thuộc châu Âu ngày nay theo cách này.
Và HSV-1 có thể đã lan rộng từ đó cho đến ngày nay do hành vi hôn môingày càng trở nên phổ biến. Hôn môi ra đời cách đây khoảng 3.500 năm trên tiểu lục địa Ấn Độ và có lẽ sau đó đã du nhập vào châu Âu trong các chiến dịch quân sự của Alexander Đại đế vào thế kỷ thứ tư. Herpes thường lây từ cha mẹ sang con cái khi tiếp xúc gần gũi, và hôn môi có thể đã tạo thành một con đường lây nhiễm từ người sang người nhanh hơn và trên diện rộng hơn.

Hiệu quả chiến thuật chó cảm tử đối phó phát xít Đức của Liên Xô

Trong cuộc chiến đối đầu với phát xít Đức, Hồng quân Liên Xô từng triển khai chiến thuật chó cảm tử nhằm phá hủy xe tăng của quân địch. Theo thống kê, "đội quân" đặc biệt này đã tiêu diệt được 304 xe tăng Đức quốc xã.

Hieu qua chien thuat cho cam tu doi pho phat xit Duc cua Lien Xo
 Do bị phát xít Đức bất ngờ tấn công xâm lược vào tháng 6/1941 nên trong giai đoạn đầu của cuộc chiến, Liên Xô gặp những nhiều bất lợi. Hầu như tất cả đường biên giới đều bị quân Đức quốc xã tràn qua và đánh chiếm được nhiều làng mạc.