Mối liên hệ giữa bệnh mỡ máu cao và bệnh tim mạch

(Kiến Thức) - Bệnh tim mạch và bệnh mỡ máu cao có mối liên hệ với nhau như thế nào?

Khi một người có mỡ máu cao có nghĩa là mỡ trong máu của người đó đang bị rối loạn, một số thành phần mỡ trong máu hoặc quá nhiều hoặc quá ít. Khi bị rối loạn mỡ máu thì rất có khả năng làm ảnh hưởng đến sức khỏe. Thậm chí còn nguy hiểm. Trong số bệnh tật do mỡ máu bị rối loạn gây ra, bệnh tim mạch là đáng sợ nhất.
Mỡ máu cao nguy hiểm như thế nào với bệnh tim mạch?
Người ta tổng kết thấy rằng, những người có lượng cholesterol trong máu cao có tỷ lệ mắc bệnh mạch vành cao gấp 2 - 3 lần so với người có lượng cholesterol bình thường (bình thường cholesterol máu dưới 5,2 mmol/l), trong đó rất cần quan tâm đến loại cholesterol xấu. Nếu loại cholesterol toàn phần tăng hoặc cholesterol xấu tăng hoặc tăng cả hai thì nguy cơ mắc các bệnh tim mạch càng cao do xơ vữa động mạch. Xơ vữa động mạch sẽ làm tăng huyết áp và các hệ lụy kèm theo.
Ngoài ra khi các mảng xơ vữa khi bị bong ra chúng sẽ đi theo dòng máu gây tắc nghẽn mạch vành tim gây đột tử hoặc tắc động mạch não gây tai biến mạch máu não. Giữa cholesterol và triglycerid có liên quan mật thiết với nhau cho nên khi triglycerid tăng thì loại LDL-c và VLDL-c cũng tăng theo. Khi triglycerid tăng thì ngoài việc làm xơ vữa động mạch chúng còn có khả năng làm gan bị nhiễm mỡ do tích tụ lipid ở gan bởi mất sự cân bằng giữa lipid vào gan và lipid ra khỏi gan. Điều bất lợi khi bị gan nhiễm mỡ là gan sẽ hạn chế sản xuất apoprotein, do đó lượng acid béo sẽ vào gan quá lớn làm cho gan càng bị nhiễm mỡ nặng hơn. Ngoài ra, triglycerid tăng cao cũng có nguy cơ làm viêm tụy tạng cấp tính, đây là bệnh rất nguy hiểm cần can thiệp kịp thời.
Moi lien he giua benh mo mau cao va benh tim mach
Động mạch vành bị hẹp lại sẽ gây ra tình trạng thiếu máu nuôi dưỡng cơ tim. 
Một số biện pháp nhằm điều chỉnh lượng cholesterol và triglycerid máu
Khi bị tăng mỡ máu có thể có liên quan mật thiết với chế độ ăn hằng ngày không hợp lý và một số yếu tố liên quan khác. Những người ăn nhiều mỡ động vật, phủ tạng động vật, lòng đỏ trứng, sữa toàn phần, bơ… sẽ có nguy cơ tăng mỡ máu. Vì vậy, nên hạn chế ăn các loại thức ăn có chứa các chất béo và cholesterol như bơ, sữa toàn phần, thịt xông khói, dầu dừa, dầu quả cây cọ, các phủ tạng động vật, da gà, da vịt, da ngỗng. Hạn chế dùng các loại thực phẩm có chứa trans-fat như các loại chiên rán, nhất là chiên rán với loại dầu, mỡ đã sử dụng nhiều lần như quẩy, thịt rán, mì ăn liền.
Với người bị béo phì nên có chế độ giảm béo. Nên giảm béo một cách từ từ, không nóng vội, không dùng các loại dược phẩm, thuốc Nam, thực phẩm chức năng không rõ nguồn gốc, chưa được cấp phép. Muốn giảm béo thông dụng là tăng cường vận động như tập thể dục, ăn giảm calo (cần giảm khoảng 250calo/ngày). Nếu không bị tăng huyết áp, sức khỏe tốt thì có thể tập một số động tác nặng như đi bộ với tốc độ nhanh, chạy với tốc độ vừa phải với độ dài vài ba trăm mét hoặc đạp xe đạp.
Với người nghiện thuốc lá, bia, rượu thì cần sử dụng giảm dần để đi tới bỏ hẳn. Nên khám bệnh theo định kỳ và nên được theo dõi tại một cơ sở y tế. Trong trường hợp đã áp dụng chế độ ăn hợp lý, chế độ tập luyện đều đặn mà mỡ máu không được cải thiện hoặc cải thiện không đáng kể thì sẽ được bác sĩ chỉ định dùng thuốc làm giảm mỡ máu. Tuyệt đối không tự động mua thuốc dùng khi không có đơn của bác sĩ. Bởi vì dùng thuốc giảm mỡ máu cần phải theo dõi chặt chẽ men gan (SGOT và SGPT) và một số chỉ số sinh hóa khác.
Mỡ máu gồm những chất gì?
Mỡ máu bao gồm một số chất chính như cholesterol, triglycerid, lipoprotein, apoprotein, axít béo tự do và phospholipid. Trong các thành phần này thì cholesterol, lipoprotein, apoprotein và triglycerid đóng một vai trò hết sức quan trọng. Cholesterol chủ yếu do gan tạo ra từ các chất béo bão hoà. Mỗi ngày có khoảng 1g cholesterol được tạo ra và hoà cùng dòng máu đi khắp cơ thể.
Ngoài ra một phần nhỏ cholesterol cũng được hấp thu từ các loại thức ăn như sữa, lòng đỏ trứng, mỡ động vật, não, lòng động vật, tôm… Triglycerid được tạo ra khi các axít béo sau khi hấp thu qua gan, được gan chuyển hoá thành cholesterol, lượng axít béo tự do không được gan chuyển hóa sẽ dư thừa và trở thành triglycerid.
Thành phần lipoprotein được hình thành tại gan do triglycerid kết hợp với apoprotein (apoprotein do gan tạo ra). Lipoprotein gồm 2 dạng: lipoprotein có tỷ trọng thấp (LDL-c) và còn có cả dạng rất thấp (VLDL-c) và lipoprotein tỷ trọng cao (HDL-c). Loại LDL-c và VLDL-c là 2 loại cholesterol xấu và rất xấu vì chúng làm xơ vữa động mạch nhất là động vành tim và động mạch não. Ngược lại loại HDL-c là loại cholesterol tốt vì chúng có khả năng đưa cholesterol ra khỏi thành động mạch, trở về gan rồi đào thải chúng ra khỏi cơ thể.
Xem video chuyên gia chia sẻ sự nguy hiểm của bệnh mỡ máu cao.

Đối tượng dễ bị bệnh mỡ máu cao

(Kiến Thức) - Bệnh mỡ máu cao thực chất là tình trạng rối loạn chuyển hóa lipid máu, nguyên nhân có thể là tiên phát hoặc thứ phát do các bệnh khác. 

Nguyên nhân gây ra bệnh mỡ máu cao có thể là tiên phát (do di truyền) hoặc thứ phát. Sự rối loạn này bao gồm: tăng loại lipoprotein có phân tử lượng thấp (LDL-c), giảm loại có phân tử lượng cao (DHL-c), tăng Triglycerid, sự thay đổi này đồng thời làm cho Cholesterol toàn phần tăng, cho nên có tên gọi là bệnh mỡ máu cao.

Các nhóm đối tượng có nguy cơ bị rối loạn mỡ máu gồm:

1. Nhóm đối tượng thừa cân, béo phì, hút thuốc lá, uống nhiều rượu, ăn nhiều thức ăn có chứa chất béo sẽ làm tăng lượng triglycerid trong máu là những đối tượng có nguy cơ cao mắc bệnh mỡ máu cao ( rối loạn mỡ máu). Người gầy nhưng nếu có chế độ ăn uống không lành mạnh: sử dụng rượu bia, hút thuốc, ăn nhiều nội tạng động vật cũng có khả năng mắc bệnh máu nhiễm mỡ.

Cholesterol được sản xuất ở gan (khoảng 80%) từ các a-xít béo bổ xung từ thực phẩm hoặc từ các khâu chuyển hóa khác và 20 % là cung cấp trực tiếp từ những thức ăn có hàm lượng chlesterol cao như: mỡ động vật, thịt có màu đỏ (thịt bò, thịt lợn), tôm, lòng lợn, lòng bò, óc, trứng, dầu dừa (là dầu thực vật nhưng lại có nhiều acid béo bão hòa).

Ở nhóm đối tượng này do có thói quen ăn uống vô độ , lượng a-xít béo (Nguyên liệu để sản xuất cholesterol) cũng như cholesterol được đưa vào cơ thể quá nhiều, làm tăng quá trình thấm vào màng trong của động mạch mặc dù đôi khi nồng độ LDL-c chưa phải là ở mức cao.

Việc điều chỉnh chế độ ăn uống theo hướng giảm thực phẩm có chứa nhiều cholesterol và tập thể dục thường xuyên có hiệu quả tốt ngăn chặn bệnh rối loạn mỡ máu.

2. Nhóm đối tượng mắc các bệnh đái tháo đường, hội chứng thận hư, suy tuyến giáp, bệnh gan mãn: Ở nhóm này, việc điều trị tích cực, kiểm soát tốt các triệu chứng và biến chứng có tác động tốt đến sự rối loạn mỡ máu.

- Ở bệnh đái tháo đường: Đái tháo đường là bệnh rối loạn chuyển hóa carbohydrat (đường), có kèm theo rối loạn chuyển hóa lipid (mỡ) và protein (đạm). Trong cơ thể sinh vật sống sự chuyển hóa đường - đạm - mỡ có mối liên quan mật thiết tương hỗ với nhau. Sự rối loạn chuyển hóa lâu dài của một chất đều kéo theo sự rối loạn chuyển hóa của 2 chất còn lại. Ở trường hợp này, sự rối loạn chuyển hóa lipid thường là suy thoái và giảm tất cả các loại lipoproten trong máu, nhưng đôi khi các loại khác giảm nhưng LDL-c lại không giảm, hoặc tăng nên gây ra bệnh rối loạn mỡ máu.

- Ở hội chứng thận hư: Hội chứng thận hư là một hội chứng lâm sàng và sinh hóa, được đặc trưng bởi phù, protein niệu (protein trong nước tiểu) cao, protein máu giảm, rối loạn lipid máu và có thể đái ra lipid, do nhiều tình trạng bệnh lý khác nhau gây nên. Ở đây rối loạn mỡ máu là một triệu chứng của hội chứng thận hư.

- Trong bệnh suy tuyến giáp: Tuyến giáp sản xuất hormon tuyến giáp không đầy đủ gây nên tổn thương các mô và các rối loạn chuyển hóa, trong đó có chuyển hóa lipid. Các xét nghiệm sinh hóa trong suy giáp thường thấy: thiếu máu, tăng cholesterol, tăng Triglycerid, Glucoza giảm, natri máu giảm....

3. Nhóm đối tượng bị bệnh mãn tính sử dụng thuốc điều trị lâu dài không đúng cách:Một số thuốc tim mạch như thuốc ức chế bêta giao cảm, thuốc tránh thai lâu dài, nghiện rượu,

- Ở người nghiện rượu: Nghiện rượu là nghiện Ethanol, biểu hiện là lệ thuộc vào các triệu chứng xuất hiện khi không uống rượu, người nghiện bắt buộc phải uống rượu để cắt các triệu chứng này.

Ethanol khi có nồng độ cao thường xuyên trong máu gây tổn thương các mô, ethanol xen vào giữa hai lớp lipid làm giảm thứ tự phân tử của các chuỗi acyl của phospholipid làm thay đổi cấu trúc màng từ đó làm gia tăng quá trình thấm cholesterol vào màng trong động mạch làm gia tăng xơ vữa động mạch. Rượu không trực tiếp gây bệnh rối loạn mỡ máu, chúng là yếu tố làm tăng biến chứng của rối loạn mỡ máu. Rượu liên quan đến rối loạn mỡ máu là do chúng gây viêm gan mạn và xơ gan do rượu, từ đó dẫn đến rối loạn chuyển hóa các chất trong đó có rối loạn chuyển hóa lipid.

- Ở người sử dụng các thuốc chẹn bê ta (Beta-blockers) lâu dài:

Các thuốc chẹn beta được sử dụng nhiều trong điều trị các bệnh tim mạch, mắt ( bệnh thiên đầu thống), run vô căn, nhiễm độc tuyến giáp,cao huyết áp kịch phát... . Một số thuốc chẹn bêta tan trong mỡ và chúng tăng đề kháng insulin do đó dễ kích hoạt đái tháo đường tiềm tàng dẫn đến bị đái tháo đường, rối loạn chuyển hóa đường và liên quan là chuyển hóa lipid. Do vậy, bệnh nhân khi phải điều trị lâu dài các thuốc này phải tuân thủ nghiêm ngặt quy trình do bác sĩ đặt ra, không tự ý mua thuốc về điều trị vì tin rằng mình bị bệnh lâu năm có kinh nghiệm về bệnh.

- Ở người sử dụng thuốc tránh thai lâu dài, do thuốc là tổ hợp các hoóc-môn nội tiết sinh dục, sử dụng lâu dài thường kèm theo các biến chứng như: tăng sắc tố ở gò má (nám da), sỏi mật, rối loạn chuyển hóa trong đó có chuyển hóa lipid.

Liên hệ tư vấn hỗ trợ điều trị rối loạn mỡ máu: 0919 394 000

Xem video chia sẻ của Tiến sỹ Nguyễn Hoàng về sự nguy hiểm của bệnh mỡ máu.


Vì sao người gầy vẫn bị rối loạn mỡ máu?

(Kiến Thức) - Khảo sát tại Trung tâm Dinh dưỡng TPHCM cho thấy, hơn 2/3 người trưởng thành có thân hình chuẩn, thậm chí gầy ốm vẫn bị rối loạn mỡ máu.

Tại sao lại có tình trạng này?
Cái nhìn chưa đúng về rối loạn mỡ máu