Hoàng Thái Cực và bí ẩn ly kỳ trong địa đạo ở Thanh Chiêu lăng

Hoàng Thái Cực là vị hoàng đế sáng lập Thanh triều trong lịch sử Trung Quốc ẩn chứa vô vàn bí ẩn "chấn động" về con người, sự nghiệp cũng như lăng mộ.

Hoàng Thái Cực là ai?

Triều đại nhà Thanh là triều đại cuối cùng của thời kỳ phong kiến Trung Quốc và cũng là triều đại được hậu thế quan tâm nhất. Vậy người sáng lập ra Thanh triều thịnh thế - Hoàng Thái Cực là ai?

Hoàng Thái Cực (1592 – 1643), là vị Đại hãn thứ hai của nhà Hậu Kim, đồng thời cũng là người sáng lập triều đại nhà Thanh hưng thịnh thời phong kiến Trung Quốc. Do Hoàng Thái Cực khai sinh ra Đại Thanh và dùng niên hiệu Sùng Đức suốt 16 năm trị nên hậu thế đều gọi ông là Sùng Đức Đế.

Ông là con trai của thủ lĩnh tộc Nữ Chân - Nỗ Nhĩ Cáp Xích và thê thiếp là Diệp Hách Na Lạp Mạnh Cổ Triết Triết. Năm 1603, Nỗ Nhĩ Cáp Xích tấn công bộ tộc Diệp Hách Na Lạp, mẹ Hoàng Thái Cực chết vì uất hận khi ông mới 10 tuổi.

Ngay từ lúc niên thiếu, Hoàng Thái Cực đã được theo cha và các huynh đệ khác thân chinh thảo phạt các bộ tộc ở khu vực đông bắc. Với sự thông minh, uyên bác và cơ trí của mình, Hoàng Thái Cực nhanh chóng trở nên nổi bật và được vua cha tin cậy phong làm Tứ Bối lặc, giữ nhiệm vụ chỉ huy Chính bạch kỳ trong Bát kỳ Nữ Chân.

Hoang Thai Cuc va bi an ly ky trong dia dao o Thanh Chieu lang

Bởi vì trước khi quy tiên, Nỗ Nhĩ Cáp Xích vẫn chưa kịp để lại ý chỉ về người kế vị nên ngôi vua còn trống trở thành cuộc tranh chấp "anh sống tôi chết" giữa những người con trai của ông đặc biệt là giữa A Tế Cách – con trai thứ 12 và Hoàng Thái Cực.

Bằng các thủ pháp thỏa hiệp và kế hoạch thâm sâu của mình, Hoàng Thái Cực nhanh chóng tranh thủ được ủng hộ của triều thần và một vài huynh đệ khác để lên ngôi Hãn. Lúc này ông tuyên bố sẽ kế vị sự nghiệp chinh phục nhà Minh, đưa ra lời thề sẽ trả thù cho cha và đặt niên hiệu mới là Thiên Thông.

Sự nghiệp lẫy lừng của Hoàng Thái Cực

Sau khi lên ngôi Đại hãn, Hoàng Thái Cực không thể tự chuyên quyền được, chỉ nắm quyền lực như một Kỳ chủ. Thế nên để củng cố ngôi vị độc tôn, ông đã lần lượt loại trừ những người có nguy cơ đe dọa đến vị trí quân chủ của mình.

1. Ép chết A Ba Hợi và đoạt binh A Tế Cách

A Ba Hợi – sủng phi của Nỗ Nhĩ Cáp Xích, là mẹ của 3 người huynh đệ khác và cũng là người nắm trong tay quyền khống chế 3 Kỳ.

Với lý do là làm theo di nguyện trước khi chết của cha muốn bà tuẫn táng cùng nên Hoàng Thái Cực đã bức A Ba Hợi tự sát rồi phân chia quyền quản lý 3 Kỳ cho 3 người con trai của bà là A Tế Cách, Đa Nhĩ Cổn và Đa Đạc.

Hoang Thai Cuc va bi an ly ky trong dia dao o Thanh Chieu lang-Hinh-2

Sau này, để loại trừ đối thủ tiếp theo sau huynh trưởng Đại Thiện là A Tế Cách, Hoàng Thái Cực đã nhân một lỗi nhỏ của A Tế Cách xử tội vượt quyền, tự ý hành xử, phạt giáng cấp và đoạt lại binh quyền trong tay A Tế Cách.

2. Nhanh chóng nắm quyền Bát Kỳ

Sau cái chết của A Ba Hợi và hạ bệ A Tế Cách, Hoàng Thái Cực lần lượt triệt hạ các huynh đệ khác bằng cách giam cầm Nhị Bối lặc A Mẫn vì "16 tội lớn" trong đó có tội mưu đồ tranh giành ngôi vị, cách chức Mãng Cổ Nhĩ Thái – con trai thứ 5 của cha Nỗ Nhĩ Cáp Xích vì thái độ phạm thượng với Đại hãn và cuối cùng là tước quyền Đại Thiện – người huynh trưởng vốn là đối thủ lớn nhất, là "cái gai trong mắt" của Hoàng Thái Cực bấy lâu nay.

3. Mở rộng bờ cõi

Sau khi chính thức nắm thực quyền và phân bố lại Bát Kỳ, Hoàng Thái Cực nhanh chóng lên thực hiện những tính toán của mình trong việc mở rộng bờ cõi.

Triều Tiên là mục tiêu đầu tiên của Hoàng Thái Cực trong công cuộc bành trướng lãnh thổ bởi đất nước này có binh lực suy yếu với sản vật thiên nhiên phong phú, chắc chắn sẽ là nguồn lực dồi dào trong các đợt viễn chinh tương lai. Sau hai lần khởi binh xâm lược, đặc biệt là sau khi Hoàng Thái Cực xưng đế, lập ra nước Đại Thanh, Triều Tiên đã trở thành một nước chư hầu của nhà Thanh.

Hoàng Thái Cực và bí ẩn ly kỳ trong địa đạo ở Thanh Chiêu lăng - Ảnh 3.

Sau lần tiến công đầu tiên nhằm vào Triều Tiên, Hoàng Thái Cực chinh phạt Mông Cổ với vô số các cuộc chinh phạt liên tiếp trong 5 năm buộc vị Đại Hãn cuối cùng của Mông Cổ phải đào tẩu và chết trên đường tháo chạy.

Năm 1634, Mông Cổ đã phải chính thức đầu hàng người Mãn Châu và trao lại ấn ngọc của Hoàng đế nhà Nguyên cho Hoàng Thái Cực. Từ đó, Mông Cổ là một phần của triều đình Mãn Thanh.

4. Các cuộc cải cách

Nếu so sánh với vua cha Nỗ Nhĩ Cáp Xích chỉ nổi tiếng là một võ tướng tài ba thì Hoàng Thái Cực còn hơn hẳn cha mình bởi ông còn được đánh giá là một chính trị gia xuất chúng. Ông đã lập ra và tiến hành hàng loạt các cuộc cải cách để từng bước tạo nền móng cho triều đình Mãn Thanh đại thịnh của sau này.

Mà đặc biệt phải kể đến quyết định bãi bỏ chế độ Nghị chính vương (các Đại bối lặc có quyền tham dự và cùng đưa ra quyết định cho việc quốc gia đại sự), đổi tên tộc người từ Nữ Chân thành Mãn Châu cũng như đổi quốc hiệu từ "Đại Kim" thành "Đại Thanh", bãi bỏ phân biệt sắc tộc, cải cách nội chính và cải cách quân đội.

Bí ẩn ly kỳ trong địa đạo lăng mộ Hoàng Thái Cực - Thanh Chiêu lăng

Vào một đêm khuya năm 1963, trong lăng mộ của Hoàng Thái Cực ở Thẩm Dương đã xảy ra một sự việc hết sức kỳ bí. Một cách ngẫu nhiên, khi đi tuần quanh lăng mộ như thường lệ, người bảo vệ của lăng mộ đã bất ngờ phát hiện ra một con cáo, nhưng nó nhanh chóng biến mất ở dưới một gốc cây cổ thụ. Tiến đến kiểm tra thì người bảo vệ này tìm thấy một cái hốc rất lớn có vị trí gần với lăng mộ của Hoàng Thái Cực.

Ông sợ rằng con cáo đã đào cái hố đó để lẻn vào phá hoại bên trong lăng mộ nên đã tìm cách dụ nó ra ngoài.

Cáo là loài vật rất tinh ranh, nhưng lại vô cùng sợ nước thế nên người bảo vệ đã lấy mấy xô nước đổ vào cây rồi hí hửng đợi con cáo chui ra ngoài. Bất ngờ thay, dù đã đổ hơn chục xô nước mà bên trong vẫn không hề có động tĩnh gì.

Người bảo vệ nghi ngờ cái hố cây không hề đơn giản, có thể liên quan mật thiết đến lăng mộ nên đã báo ngay với đội chuyên gia đến điều tra. Ngay hôm sau, đội ngũ chuyên gia đã quyết định chặt bỏ cái cây vì nghi ngờ bên dưới là địa đạo bí mật dẫn vào trong lăng mộ của Hoàng Thái Cực.

Hoàng Thái Cực và bí ẩn ly kỳ trong địa đạo ở Thanh Chiêu lăng - Ảnh 4.

Sau khi chặt cái cây cổ thụ đó, họ phát hiện ra dưới gốc cây có một phiến đá màu xanh rất lớn. Bên dưới là một lối vào tương đối hẹp. Phát hiện này đã làm chấn động giới khảo cổ học bởi đây chắc chắn là một cơ hội có 1-0-2 để tìm hiểu thêm về vị hoàng đế sáng lập Thanh triều.

Vậy là một đội khảo cổ gia gồm ba người đã tiến vào bên trong cùng đèn pin và bình dưỡng khí. Cửa địa đạo chỉ cao hơn 1m, nếu không cúi thấp người xuống thì gần như không thể tiến về phía trước. Nhưng càng đi vào trong, lối vào đường hầm lại càng hẹp.

Ba người vừa di chuyển được khoảng 150 mét, chợt nhìn thấy trước mặt có ba cột đá to lớn khiến họ không thể tiếp tục tiến về phía trước. Bên trong đường hầm tương đối trơn trượt, bình dưỡng khí ba người chuẩn bị từ trước đó gần như cạn kiệt nên tình hình lúc đó cực kỳ nguy hiểm. Nếu không nhờ sự giúp đỡ kịp thời của đội nhân viên bên ngoài thì có lẽ họ đã không thể sống sót.

Hoàng Thái Cực và bí ẩn ly kỳ trong địa đạo ở Thanh Chiêu lăng - Ảnh 5.

Sau khi ra khỏi địa đạo, họ xác định đường hầm này có lẽ được xây dựng như một đường thoát nước của lăng mộ Hoàng Thái Cực. Xét thấy sự nguy hiểm và không cần thiết của địa đạo này, đội chuyên gia đã quyết định lấp kín lối vào địa đạo này, mọi tin tức lúc đó đều bị phong tỏa để đề phòng những kẻ trộm mộ có thâm cơ sâu độc.

Tất nhiên về sau này, khi Chiêu lăng được nhà nước bảo vệ nghiêm ngặt hơn thì các chuyên gia và đội khảo cổ đã thoải mái kể về câu chuyện thần bí đêm hôm đó, từ sự dẫn dắt của con cáo đến sự nguy hiểm suýt lấy đi tính mạng của 3 chuyên gia.

Người Hoàng Thái Cực yêu nhất là ai và chuyện về 3 cô cháu ruột chung chồng

Không chỉ nổi tiếng với tài trị vì và sự nghiệp lẫy lừng, Hoàng Thái Cực còn khiến hậu thế vô cùng chú ý đến hậu cung của ông đặc biệt là câu hỏi về người Hoàng Thái Cực yêu nhất là ai?

Chắc hẳn ai quan tâm đến Thanh triều cũng biết đến cuộc hôn nhân chính trị giữa Hoàng Thái Cực và Hiếu Đoan Văn Hoàng hậu Triết Triết người Mông Cổ như một cách để củng cố con đường củng cố ngôi vị độc tôn của ông.

Hoàng Thái Cực và bí ẩn ly kỳ trong địa đạo ở Thanh Chiêu lăng - Ảnh 6.

Vì trong suốt 11 năm sau cuộc liên hôn, Triết Triết không thể sinh nở nên 2 người cháu của bà là Hải Lan Châu và Bố Mộc Bố Thái lần lượt được tiến cung và trở thành phi tần của Hoàng Thái Cực.

Sau khi nhập cung, Hải Lan Châu nhanh chóng trở thành vị Phúc tấn được Hoàng Thái Cực sủng ái và cưng chiều nhất với rất nhiều những ân sủng mà Triết Triết hay Bố Mộc Bố Thái cũng không dám mơ tưởng đến.

Năm 1636, Hoàng Thái Cực xưng đế, lập ra nước Đại Thanh, lập Triết Triết là Hiếu Đoan Văn Hoàng hậu. Ông còn lập nên chế độ Tứ phi, mặc dù Bố Mộc Bố Thái tiến cung trước 9 năm nhưng chỉ được phong Trang phi, còn Hải Lan Châu được phong Thần phi cũng là địa vị cao nhất trong Tứ phi.

Hoàng Thái Cực và bí ẩn ly kỳ trong địa đạo ở Thanh Chiêu lăng - Ảnh 7.

Sự sủng ái của Hoàng Thái Cực đối với Hải Lan Châu còn vô cùng rõ ràng khi bà hạ sinh Bát hoàng tử, ông lập tức ban chiếu cáo đại xá thiên hạ và ngầm thông báo ý định muốn lập Hoàng bát tử làm Thái tử kế vị.

Thế nhưng Hoàng bát tử không may chết yểu khi mới chỉ vài tháng tuổi khiến Thần phi đau đớn khôn cùng và u uất cho đến chết vào 3 năm sau đó. Khi Hải Lan Châu qua đời, Hoàng Thái Cực nhiều lần khóc ngất đi, ngày ngày đắm chìm trong nỗi nhớ thương vô hạn và truy phong cho bà là Mẫn Huệ Cung Hòa Nguyên phi.

Như vậy chứng tỏ, dù rằng Hiếu Đoan Văn Hoàng hậu vừa xinh đẹp lại vô cùng thông tuệ nhưng người Hoàng Thái Cực yêu nhất chắc chắn phải là Mẫn Huệ Cung Hòa Nguyên phi Hải Lan Châu.

Hoàng Thái Cực – vị vua sáng lập ra triều đại nhà Thanh cực thịnh vẫn luôn thu hút sự tò mò và quan tâm của hậu thế không chỉ bởi con người, con đường củng cố ngôi vị độc tôn, sự nghiệp lẫy lừng, hậu cung mà còn cả lăng mộ nơi ông an giấc thiên thu.

Vì sao nhà Thanh có 13 niên hiệu nhưng chỉ có 12 vị hoàng đế?

Đâu là nguyên nhân dẫn đến sự sai khác này? Có phải trong một thời kỳ nhà Thanh đã không có vua.

Từ khi thành lập nhà Hạ vào thế kỷ 22 trước Công nguyên cho đến sự sụp đổ của nhà Thanh đầu thế kỷ 20- triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử, Trung Quốc tổng cộng đã trải qua 14 triều đại phong kiến.

Trong đó nhà Thanh là triều đại thứ hai trong lịch sử Trung Quốc do người dân tộc thiểu số nắm quyền. Vị trí lịch sử vô cùng đặc biệt như vậy đã khiến nhà Thanh trở thành chủ đề vô cùng hấp dẫn đối với những người yêu thích lịch sử.

Nhà Thanh trải qua tổng cộng 12 đời vua, thế nhưng có tới 13 niên đại. Theo đó, niên hiệu là tên một giai đoạn gồm các năm nhất định, thường là năm trị vì của một vị vua dưới thời phong kiến.

Mỗi vị vua thường gắn với một niên hiệu như Hiến Hoàng Đế Dận Chân (1678-1735) có niên hiệu là Ung Chính, Thuần Hoàng Đế Hoằng Lịch (1711-1799) là Càn Long. Sở dĩ nhà Thanh có đến 13 niên hiệu là do Văn Hoàng Đế Hoàng Thái Cực (1592-1643)

Vi sao nha Thanh co 13 nien hieu nhung chi co 12 vi hoang de?

Tranh vẽ Hoàng đế Hoàng Thái Cực. Nguồn: Internet.

Như chúng ta đã biết tiền thân của nhà Thanh không gọi là nhà Thanh. Trước đó Hoàng Thái Cực đã lật đổ chính quyền nhà Minh ở khu vực người Nữ Chân, lên ngôi Đại Hãn nhà Hậu Kim, đổi tên người Nữ Chân thành người Mãn.

Thời điểm này, niên hiệu của ông là Thiên Thông (天聰). Năm 1636, Hoàng Thái Cực đổi quốc hiệu Đại Kim thành Đại Thanh, lên ngôi Hoàng Đế đồng thời đổi niên hiệu thành Sùng Đức.

Chính vì việc Hoàng Thái Cực đổi tên một lần đã ghi nhận tới 2 niên đại của riêng vị vua này. Từ đây vị hoàng đế khai quốc nhà Thanh chính thức bắt đầu chặng đường tham vọng để biến người Mãn trở thành chủ nhân thực sự của Tử Cấm Thành.  

Điềm báo kì lạ về 83 triều đại phong kiến Trung Hoa trước khi diệt vong

Trong 83 triều đại phong kiến, trải qua sự thay đổi của gần 600 người cầm quyền, sự hưng vong của các triều đại từ đời này qua đời khác vẫn là bí mật lớn với các nhà sử học hiện đại.

Dựa theo các văn tự được lưu giữ trong lịch sử, sự tồn tại của một vương triều có thể nói là được bắt đầu từ thời nhà Hạ vào khoảng những năm 2700 TCN.

Ở thời đại lịch sử xa xôi ấy, con người vẫn còn rất nhỏ bé. Để có thể duy trì sự sống, các bộ lạc phải cùng giúp đỡ lẫn nhau, cùng nhau chống lại sự tấn công của môi trường tự nhiên khốc liệt, sự lạc hậu và hiểm nguy cận kề khiến con người thời đại ấy sống vì mục đích sinh tồn.

Thời phong kiến, tầng lớp địa vị ở Trung Quốc coi thịt lợn như phế phẩm

Thịt lợn đã trở thành loại thực phẩm thất thế suốt một thời gian dài trong lịch sử Trung Hoa.

Trong lịch sử phong kiến Trung Hoa, thịt lợn từng là một nguyên liệu thực phẩm bị giai cấp thống trị hết sức coi thường. Liệu rằng đâu là lý do mà loại thịt ấy lại thất thế trong thời kỳ này tới vậy?

Thời kỳ đầu: Bị đẩy xuống vị trí áp chót vì giai cấp thống trị ưa chuộng loại thịt khác

Vào thời Xuân Thu – Chiến Quốc, thịt lợn vốn là thứ mà chỉ có giới quý tộc mới có thể sở hữu. Lúc bấy giờ, đây được xem là nguyên liệu vô cùng phù hợp để làm tế phẩm trong các nghi thức tâm linh.

Tuy nhiên trong một xã hội phong kiến coi trọng cấp bậc, địa vị của thịt lợn lại thấp hơn nhiều so với các loại thịt dê, thịt bò.

Thậm chí, có học giả còn nhận định rằng: "Lợn tuy có nhiều tác dụng, nhưng duy chỉ có thịt là không nên ăn".

Tới thời nhà Tống, địa vị của loại nguyên liệu này thậm chí đã bị đẩy xuống tầng áp chót. Nguyên nhân là bởi giai cấp thống trị của triều đại này phần lớn đều ưa chuộng thịt dê.

Đó là chưa kể tới việc Hoàng đế khai quốc của Tống triều là Triệu Khuông Dận từng thẳng thắn cho rằng thịt lợn không xứng với khí chất cao quý của hoàng gia.

Cũng bởi chịu ảnh hưởng từ những quan niệm nói trên, Ngự thiện phòng trong cung khi ấy đa số đều dùng thịt dê làm nguyên liệu chế biến chủ đạo.

Sau này, Tống Thần Tông vì muốn tiết kiệm chi tiêu nên mới bắt đầu cho phép dùng thịt lợn. Thế nhưng quan điểm phiến diện của tầng lớp thống trị nhà Tống với loại nguyên liệu ấy vẫn khó có thể thay đổi.

Thoi phong kien, tang lop dia vi o Trung Quoc coi thit lon nhu phe pham

Tô Đông Pha và món thịt trứ danh mang tên ông. (Ảnh: Nguồn Internet).

Trên thực tế, bởi vì giá cả của thịt lợn rất rẻ nên các quan viên không mấy khá giả vẫn tương đối hoan nghênh.

Minh chứng tiêu biểu là Tô Đông Pha năm xưa từng làm ra món thịt kho Đông Pha trứ danh cho tới ngày nay. Và nguyên liệu của món ăn nổi tiếng ấy không gì khác ngoài thịt lợn.

Thế nhưng ít ai biết rằng, Tô Đông Pha lúc sinh thời vốn vô cùng yêu thích thịt dê. Chỉ có điều vì gia cảnh không mấy khá giả nên ông mới phải tìm tới thứ nguyên liệu có giá cả hợp lý như thịt lợn để nấu ăn mà thôi.

Giai đoạn u tối: Bị "khai tử" trên toàn lãnh thổ Đại Minh

Tới thời nhà Minh, Hoàng đế Chu Hậu Chiếu thậm chí còn từng ban hành đạo luật cấm buôn bán thịt lợn.

Nguyên nhân là bởi họ Chu của ông vốn đồng âm với chữ "heo" trong tiếng Trung. Hơn nữa bản thân Hoàng đế lại là người tuổi hợi, nên ông cho rằng giết lợn để lấy thịt sẽ đem tới điềm xui xẻo.

Vì vậy, Chu Hậu Chiếu đã ban hành đạo luật mang tên "Cấm trư lệnh", hạ lệnh cho bách tính không được nuôi heo, giết heo.

Đạo luật này vừa ban hành, thịt lợn đã như bị "khai tử" trên khắp lãnh thổ Minh triều. Thậm chí ngay tới các món ăn cúng tế thường dùng thịt heo làm nguyên liệu nay cũng phải đổi thành thịt dê.

Bước ngoặt khởi sắc: Vực dậy địa vị nhờ Thanh triều

Thoi phong kien, tang lop dia vi o Trung Quoc coi thit lon nhu phe pham-Hinh-2

Ảnh minh họa: Nguồn Internet.

Phải tới thời nhà Thanh, địa vị của nguyên liệu nói trên mới có chút khởi sắc. Vì trong quan điểm của người Mãn Thanh, lợn là một loài vật hết sức hữu dụng.

Sử liệu ghi lại: "Người Mãn nuôi lợn, ăn thịt lợn, mặc đồ từ da lợn, mùa đông thì lấy cao lợn thoa lên người".

Ngay tới Hoàng đế sáng lập triều đại nhà Thanh là Hoàng Thái Cực năm xưa mỗi khi thiết đãi quốc yến cũng thường dùng loại thịt này để làm món chính trên bàn tiệc.

Sau khi nhà Thanh nhập quan, sự nhiệt tình của giai cấp vương công, quý tộc đối với thịt lợn vẫn không hề suy giảm.

Thái độ ưa chuộng của giai cấp thống trị cũng khiến cho thường dân, bách tính có cái nhìn cởi mở hơn về loại thịt nói trên. Cũng kể từ đó, thịt lợn mới dần nâng cao được địa vị của mình trong dòng chảy lịch sử.