Điềm báo kì lạ về 83 triều đại phong kiến Trung Hoa trước khi diệt vong

Trong 83 triều đại phong kiến, trải qua sự thay đổi của gần 600 người cầm quyền, sự hưng vong của các triều đại từ đời này qua đời khác vẫn là bí mật lớn với các nhà sử học hiện đại.

Dựa theo các văn tự được lưu giữ trong lịch sử, sự tồn tại của một vương triều có thể nói là được bắt đầu từ thời nhà Hạ vào khoảng những năm 2700 TCN.

Ở thời đại lịch sử xa xôi ấy, con người vẫn còn rất nhỏ bé. Để có thể duy trì sự sống, các bộ lạc phải cùng giúp đỡ lẫn nhau, cùng nhau chống lại sự tấn công của môi trường tự nhiên khốc liệt, sự lạc hậu và hiểm nguy cận kề khiến con người thời đại ấy sống vì mục đích sinh tồn.

Phải cho đến khi bước sang thời đại Xuân Thu Chiến Quốc, con người mới có đủ khả năng để chống chọi lại tự nhiên, các bước phát triển cũng được bắt đầu từ đây.

Vì tài nguyên và lợi ích sinh tồn, các cuộc chiến tranh để thống nhất thiên hạ đã nổ ra khắp lục địa Hoa Hạ. Đến năm 221 TCN, Tần Thủy Hoàng Doanh Chính thống nhất trung nguyên, mở ra bức màn của thời đại phong kiến, từ đây, một vương triều chân chính mới chính thức bắt đầu.

Song nhìn vào lịch sử các triều đại phong kiến của Trung Quốc, quả thực là có những sự việc trùng hợp đến thú vị, ví dụ như không có một vương triều nào kéo dài được hơn 300 năm thống trị, điều này ngay lập tức đã thu hút sự tìm hiểu của các học giả.

Diem bao ki la ve 83 trieu dai phong kien Trung Hoa truoc khi diet vong

Từ con đường phát triển của nhà Thanh nhìn ra điểm kỳ lạ chung của các triều đại khác

108 năm trước, vị Hoàng đế cuối cùng của triều đại phong kiến Trung Quốc thoái vị, sự sụp đổ của nhà Thanh đánh dấu cho sự kết thúc của hơn 2300 năm triều đại phong kiến thống trị.

Là triều đại tương đối quen thuộc với chúng ta, vương triều nhà Thanh là triều đại được đánh giá vô cùng phức tạp.

Nhưng nếu xét về sự phát triển tổng thể của nhà Thanh, bốn chữ "thịnh cực tất suy" đã đủ để miêu tả con đường của triều đại này.

Năm 1616, Nỗ Nhĩ Cáp Xích thành lập nhà Đại Kim, năm 1636, Ái Tân Giác La Hoàng Thái Cực xưng đế ở Thẩm Dương, xây dựng nhà Đại Thanh, vương triều nhà Thanh được bắt đầu từ đây. Sau đó, trải qua các đời vua Khang Hi, Ung Chính, Càn Long, nhà Thanh đã phát triển lên đến đỉnh cao, cường thịnh chưa từng có, đạt đến đỉnh cao về kinh tế.

Nhưng, theo sự thay đổi của thời gian, nhà Thanh cũng dần bước vào thời kỳ thoái trào. Cùng với sự biến động không ngừng của Hoàng thất nhà Thanh, gian thần, quyền thần ngày càng có thế lực, sự thay đổi Hoàng đế liên tục cũng là nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự bất ổn của quốc gia.

Từ sau thời Đạo Quang Đế, Hàm Phong Đế cũng đoản mệnh, tại vị 11 năm thì qua đời; Đồng Trị Đế còn thảm hơn, mới 19 tuổi đã chết bệnh, khiến Quang Tự Đế đăng cơ khi mới vừa 4 tuổi, Từ Hi Thái Hậu nắm quyền, giai cấp thống trị hỗn loạn vô cùng.

Có thể thấy được rằng, nguyên nhân rất lớn khiến nhà Thanh rơi vào con đường diệt vong là vì các vị Hoàng đế đoản thọ, mất sớm, hoàng quyền liên tục thay đổi, biến động.

Chúng ta đều biết rằng, trong xã hội phong kiến, hoàng quyền là luôn thứ hấp dẫn lòng người, hơn thế cùng với sự thay đổi của người cầm quyền, lớp quan viên của triều đại trước cũng sẽ bị loại trừ, càng đừng nói đến dưới sự lộng hành của bè lũ gian thần, sự thối nát của quốc gia có thể hình thành trong chớp mắt.

Xét về triều đại nhà Thanh, Khang Hi tại vị 61 năm, Càn Long trị vì 60 năm, cả hai đều là những vị Hoàng đế sống thọ, cho nên xã tắc Đại Thanh mới thịnh vượng như vậy, quyền lực không có sự biến động liên tục, đất nước đạt đến sự ổn định cao nhất, như vậy mới khiến cho đất nước không thể suy yếu, sụp đổ, rồi trở thành con rối trong tay bè lũ gian thần.

Hoàng đế sống thọ, Đại Thanh hưng thịnh, Hoàng đế đoản mệnh, nhà Thanh suy vong, có thể thấy rằng, việc Hoàng đế băng hà sớm cũng là một trong các nguyên nhân chính khiến một vương triều suy vong.

Không chỉ riêng nhà Thanh, mà các triều đại trước cũng như vậy. Hán Cao Tổ Lưu Bag thọ 62 tuổi, Hán Văn Đế, Hán Cảnh Đế cũng đều thọ gần 50 tuổi, nếu xét về điều kiện và trình độ y tế lúc bấy giờ, thì tuổi thọ như vậy đã là rất thọ rồi, nhờ thế nên vào thời kỳ đầu nhà Tây Hán, quốc gia vô cùng hùng cường thịnh vượng.

Ngược lại, đến thời Đông Hán, Thương Đế Lưu Long 2 tuổi chết yểu, Xung Đế Lưu Bỉnh 3 tuổi mắc bệnh qua đời, Hán Chất Đế Lưu Toản 9 tuổi đã băng hà.

Thử hỏi, nếu cứ 2, 3 năm lại thay một vị Hoàng đế thì vương triều nào có thể chống chọi được? Có thay đổi tất sẽ có rối loạn, có rối loạn tất sẽ có gian thần, nịnh thần thừa cơ hoành hành, cuối cùng sẽ dẫn đến việc quốc gia bị chia cắt, khiến thời thế loạn lạc.

Hoàng đế đoản thọ, cũng tức là vị Hoàng tử kế vị sẽ đăng cơ từ khi còn rất nhỏ. Mà hoàng quyền là thứ quyền lực to lớn không gì sánh nổi, có thể nắm giữ cả thiên hạ. Thử nghĩ xem hậu quả sẽ ra sao khi một đứa trẻ mới 10 tuổi nắm trong tay thứ quyền lực tối thượng đó.

Thứ nhất là Hoàng đế có thể đưa ra những ý chỉ vô cùng vô lý, hơn thế tuổi còn nhỏ thì sẽ không thể lo chuyện triều chính, việc quốc gia đại sự sẽ bị trì trệ; mặt khác, vì Hoàng đế còn nhỏ, đầu óc còn trẻ dại, ngây thơ sẽ dễ bị gian thần mê hoặc, dụ dỗ, đưa bè lũ gian thần lên nắm quyền.

Tại sao Hoàng đế Trung Hoa thường "đoản mệnh"?

Có một thực tế không thể chối cãi là đa phần các Hoàng đế Trung Hoa xưa đều không thể sống lâu. Theo các ghi chép lịch sử liên quan thì tuổi thọ trung bình của các Hoàng đế Trung Hoa phong kiến là 39 tuổi. Rốt cuộc là vì sao?

Có thể xét đến triều đại nhà Minh, tình hình chính trị ở triều đại này tương đối tốt, không có nhiều sự thay đổi Hoàng đế nắm quyền. Tuy nhiên, tuổi thọ trung bình của 16 vị Hoàng đế nhà Minh chỉ là 42 tuổi và trong số đó chỉ có 5 vị Hoàng đế sống lâu hơn con số 42 tuổi.

Từ thời Hoàng đế Tuyên Đức đến thời Hoàng đế Chính Đức (từ Hoàng đế thứ 5 đến thứ 11 của triều nhà Minh), có đến 5 vị Hoàng đế qua đời trong năm đầu tiên tại vị. Thậm chí, Hoàng đế Thái Xương (tức Minh Quang Tông, Hoàng đế thứ 15 của triều Minh) chỉ cai trị đất nước chưa đầy 1 tháng thì băng hà. 

Trước hết là vấn đề Hoàng đế rèn luyện cơ thể mỗi ngày không đủ, thêm vào đó họ thường xuyên uống rượu. Điều này khiến tình trạng sức khỏe của Hoàng đế dễ dàng suy yếu, và luôn ở mức thấp hơn sức khỏe của người bình thường.

Tiếp theo đó, một phần xuất phát từ áp lực công việc. Là Hoàng đế của một quốc gia rộng lớn như Trung Hoa, họ cần phải dậy sớm mỗi ngày để xử lý chính vụ quốc gia. Và theo thời gian, cách sinh hoạt này đã khiến cơ thể của họ không thể chịu đựng thêm, ngày càng suy kiệt và qua đời khi còn tuổi còn tương đối trẻ.

Ngoài chính sự của đất nước, Hoàng đế còn phải để tâm đến an nguy của bản thân cũng như ổn định ngôi báu của mình. Sự căng thẳng trong tinh thần sẽ càng khiến cơ thể mệt mỏi hơn.

Thêm vào đó, vị Hoàng đế nào cũng muốn trường sinh bất lão (trẻ mãi không già) nên đã tùy tiện uống thuốc kéo dài tuổi thọ. Chẳng những vậy, Hoàng đế phải sủng hạnh không ít phi tần hậu cung nên cần sử dụng nhiều loại thuốc để bồi bổ cơ thể.

Nhưng, vào thời cổ đại những thuật sĩ điều chế thuốc gần như là kẻ lừa đảo, họ chỉ lấy cái mác "trường sinh bất lão" hay "Xuân dược" để lừa gạt Hoàng đế. Những viên thuốc đó có chứa một lượng kim loại nặng, nếu sử dụng trong thời gian dài, chất độc sẽ tích tụ trong cơ thể. Như thế thì làm sao Hoàng đế có thể sống lâu hơn?

Cuối cùng, đó là áp lực sinh con đẻ cái của Hoàng đế, ông cần phải có nhiều con cháu, càng nhiều càng tốt. Ai cũng biết rõ, trong hậu cung Hoàng đế có hàng nghìn mỹ nữ, nếu mỗi ngày Hoàng đế thị tẩm 1 người thì cũng khó mà thị tẩm toàn bộ nữ nhân hậu cung. Kéo dài tình trạng như vậy, cơ thể dù có khỏe mạnh đến thế nào cũng sẽ có lúc yếu đi.

Tóm lại, Hoàng đế vừa phải tiêu hao sức khỏe thể chất và tinh thần xử lý việc triều chính lại còn phải để tâm chiều chuộng phi tần, cố gắng sinh con đẻ cái, mỗi ngày đều phải tranh đấu với kẻ khác để giữ vững ngôi báu. Lâu ngày sẽ khiến sức khỏe suy yếu, dẫn đến tuổi thọ trở nên ngắn ngủi.

Hoàng hậu thủ đoạn tàn nhẫn nhất Trung Hoa

Xuất thân của Đậu Hoàng hậu không hề tầm thường. Bà đã phải tiếp nhận sự giáo dục hà khắc của phụ thân từ thuở còn bé với mục đích vào cung tìm cơ hội phục hưng gia tộc.

Trong lịch sử phong kiến Trung Hoa, Hoàng hậu được xem là chủ của hậu cung. Chính vì vậy, từ xưa đến nay, mục đích của các cuộc cung đấu của các phi tần là được yên vị ở ngôi vị Hoàng hậu. Và Đậu Hoàng hậu của Hán Chương Đế Lưu Đát thời Đông Hán là một trong nữ nhân có mục tiêu như thế.

Mặc dù có dung mạo tuyệt sắc và độc chiếm sự sủng ái của Hoàng đế nhưng bà vẫn ra tay ác độc, từng bước bức chết các phi tần khác để củng cố địa vị của mình. Thậm chí Đậu Hoàng hậu còn khống chế tân đế và can thiệp vào chuyện triều chính.

Cung nữ Trung Hoa làm thế nào để giải quyết nhu cầu sinh lý

Trong nỗi cô đơn ở hoàng cung, "đối thực" có lẽ là cách tốt nhất để giải quyết nhu cầu sinh lý của các cung nữ.

Trong lịch sử phong kiến Trung Hoa có hàng chục nghìn nữ nhân tiến cung làm cung nữ. Một khi bước chân vào hoàng cung, họ đã mất đi toàn bộ sự tự do. Theo các ghi chép lịch sử, một trong những cách thức giải quyết nhu cầu sinh lý của cung nữ chốn cung cấm là tìm đến các đối tượng khác, được gọi là "đối thực".

"Đối thực" ban đầu được dùng để mô tả hành vi đồng tính luyến ái nữ giữa các cung nữ, về sau lại được sử dụng cho mối quan hệ ân ái giữa cung nữ và thái giám. 

Bị Càn Long đòi lấy mạng, "Tể tướng Lưu gù" bình tĩnh ứng phó 2 câu

Rốt cuộc Lưu Dung đã nói gì mà có thể bảo toàn tính mạng cho mình.

"Ở cạnh vua như ở cạnh hổ" là một chân lý không thể thay đổi trong tất cả triều đại phong kiến Trung Hoa xưa. Thân là hoàng đế phong kiến, nắm trong tay mọi quyền lực trong thiên hạ thì tính khí của họ tự nhiên sẽ kỳ quái hơn người thường rất nhiều. Cận thần chỉ cần nói sai một câu hoặc làm sai một việc nhỏ cũng đều có thể gây ra đại họa.

Lịch sử đã ghi nhận có vô số người bị trừng phạt nặng nề vì làm hoàng đế nổi giận, ngay cả hoàng tử hay thái tử cũng không có quyền miễn trừ, đành phải chấp nhận hình phạt.

Trong giao tiếp hàng ngày, nếu thiếu chừng mực một chút thì cùng lắm cũng chỉ là mất đi một người bạn, nhưng nếu hành xử sai một ly trước mặt hoàng đế, có thể người đó sẽ phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. Vì thế mà có rất nhiều đại thần đều cảm thấy run rẩy khi phải đối mặt với hoàng đế.

Bàn về cách ứng xử trước mặt vua, không thể không nhắc đến những câu chuyện giữa vua Càn Long và Lưu Dung thời nhà Thanh.

Lưu Dung được biết đến là một người tài năng, xử lý chính sự một cách chỉn chu và rất nhanh nhạy khi đối mặt với các tình huống nhiều nguy cơ.

Cuộc sống đầy chông gai của Lưu Dung

Quê hương của Lưu Dung là tỉnh Sơn Đông bây giờ, ông chọn làm quan là do thừa hưởng truyền thống hiếu học của gia đình, thêm nữa gia đình ông luôn có người làm quan.

Bi Can Long doi lay mang,

Tranh chân dung Lưu Dung.

Ông cố của Lưu Dung thi đỗ tiến sĩ trong thời Thuận Trị, ông nội thậm chí còn giữ một chức vụ quan trọng trong triều, cha ông thì đúng là hậu sinh khả úy, trở thành cử nhân, làm đại quan qua hai triều đại Ung Chính, Càn Long.

Với nền tảng giáo dục như vậy, Lưu Dung đương nhiên được kỳ vọng rất nhiều.

Sau này con đường quan lộ của Lưu Dung cũng rất suôn sẻ. Những năm đầu ông thăng tiến khá nhanh, tuy nhiên điều không may xảy đến khi vào năm thứ 4 Lưu Dung làm quan, cha ông bị mất chức vào tù. Phận làm con trai như ông cũng liên lụy, bị giáng chức xuống làm biên tu (sử quan thời xưa) ở viện Hàn Lâm.

Cuộc sống phẳng lặng bỗng xuất hiện những nốt trầm, rất nhiều người có thể vì thế mà không gượng nổi nhưng Lưu Dung không nằm trong số đó, thay vào đó, ông càng cố gắng rèn luyện và cải thiện bản thân mình hơn.

Trong thời gian làm quan ở địa phương, Lưu Dung không hề buông thả bản thân, bằng sự cương nghị và chính trực của mình, ông đã thanh trừ mọi tệ nạn lâu ngày tại trường thi, đòi lại công bằng cho các sĩ tử.

Quả thực Lưu Dung là người có năng lực, sẵn sàng làm những việc thiết thực, được nhân dân hết lòng yêu mến, dưới sự lãnh đạo của ông, chốn quan trường đã dần trở nên liêm khiết.

Bi Can Long doi lay mang,

Một đại thần như vậy đương nhiên giành được sự tin tưởng của hoàng đế, ông đã từng là cánh tay đắc lực của hoàng đế qua các triều đại Ung Chính và Càn Long.

Tài hoa xuất chúng

Với các tác phẩm văn học và nghệ thuật được phổ biến rộng rãi, Lưu Dung, Kỷ Hiểu Lam và Hòa Thân đã trở thành đại diện tiêu biểu các quan đại thần nhà Thanh trong mắt người dân.

Qua các tác phẩm điện ảnh và truyền hình, chúng ta có cảm giác ba người này có độ tuổi tương đương nhau, nhưng thực tế Lưu Dung chính là người lớn tuổi nhất trong ba người.

Tài năng của Lưu Dung cũng không hề thua kém Kỷ Hiểu Lam. Lưu Dung là người quân tử, thông thạo nhiều loại hình nghệ thuật, trong đó tinh tế nhất là thư pháp. Với nét chữ sâu sa trầm lắng, thư pháp của vị quan này được rất nhiều người săn đón vào thời điểm đó.

Ngoài ra cờ vây cũng là một trong những tài năng nổi bật của Lưu Dung, ông không chỉ chơi thành thạo mà còn là một cao thủ cờ vây.

Trong thời kỳ này, Càn Long đã truyền lại ngôi vương cho Gia Khánh và trở thành Thái thượng hoàng. Vì thế những khi rảnh rỗi, Càn Long thường tìm Lưu Dung để đánh cờ.

Bi Can Long doi lay mang,

Hóa giải nguy cơ vô cùng khéo léo

Mặc dù cờ vây chỉ là một trò chơi, mọi thứ đều giới hạn trong bàn cờ, nhưng khi bàn cờ được đặt ra, thế cờ được mở thì những quân cờ đen trắng sẽ khơi dậy tâm trí và tình cảm của người chơi. Vì thế mà người thắng sẽ tự nhiên mỉm cười rạng rỡ, còn người thua dường như đã mất điều gì đó và đương nhiên cảm thấy không vui.

Đánh cờ với một người bề trên, đặc biệt là người có thể nắm giữ sinh tử của mình, Lưu Dung đương nhiên phải thận trọng.

Kỹ năng chơi cờ vây của Lưu Dung phải nói rằng thực sự siêu phàm, ông luôn có thể điều khiển và xoay chuyển ván cờ trong ván đấu với Càn Long khiến cho vị thái thượng hoàng này đều có thể giành được thắng lợi một cách tự nhiên. Mỗi lần như vậy Càn Lòng đều cảm thấy rất thoải mái, vì thế những lần sau đều tìm Lưu Dung để đánh cờ, đây không biết là điều may mắn hay xui xẻo cho Lưu Dung.

Tuy nhiên Lưu Dung cũng khó tránh khỏi khi lỡ tay, ông đã có một lần tính toán sai lầm dẫn đến kết quả là đánh thắng Càn Long. Lúc này Càn Long đã phản ứng dữ dội, sa sầm mặt lại rồi lật ngược bàn cờ, tức giận hỏi Lưu Dung: "Nhà người dám thắng ta sao, lẽ nào không sợ ta giết ngươi?"

Sinh mệnh nằm trong tay người khác, tình huống này thực sự khiến người khác cảm thấy bị đe dọa. Thế nhưng Lưu Dung dù sao cũng là một vị quan gia đã có nhiều năm kinh nghiệm quan trường, lại rất giỏi ứng biến, nên ông không hề lo sợ hay run rẩy. Ông quỳ trên mặt đất, bình tĩnh đưa ra lời giải thích:

"Kỹ năng đánh cờ của Thái thượng hoàng là tuyệt vời, lần này thần thắng là do gặp may mà thôi. Tầm mắt hạn hẹp của thần chỉ nhìn thấy ván cờ, còn trong mắt Thái thượng hoàng đều là vạn lý giang sơn, vạn vật đều ở trong tay, tại sao lại tính toán với thần một ván cờ này?"

Bi Can Long doi lay mang,

Hình ảnh nhân vật Lưu Dung trên phim.

Những lời này của Lưu Dung vô cùng khéo léo và đi vào lòng người, Càn Long nghe xong lập tức nở nụ cười, không truy cứu Lưu Dung thêm nữa.

Lời bình

Thời xưa, các quan trong triều không chỉ được kiểm nghiệm tài năng của bản thân mà quan trọng hơn là khả năng ứng phó với hoàng đế, thậm chí đôi lúc khả năng này còn quan trọng hơn tài năng cá nhân rất nhiều.

Vì thế mà có rất nhiều người vừa không có tài lại không có đức nhưng dựa vào thói xu nịnh hoàng đế mà trở thành trọng thần của đất nước.

Tuy nhiên với Lưu Dung, ông không chỉ thực hiện tốt chức trách của mình mà còn rất nhanh nhạy trong việc giao tiếp với hoàng đế, xứng đáng là nguyên lão của hai triều đại.