Đường công danh và cách đánh giặc hiếm có của dũng tướng nhà Trần

(Kiến Thức) - Trong số những dũng tướng thời Trần, Phạm Ngũ Lão là một người văn võ toàn tài, đã có những đóng góp to lớn vào sự nghiệp đánh đuổi ngoại xâm, giữ yên bờ cõi cho Đại Việt.

Trong số những danh tướng nổi tiếng nhất thời Trần, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn chắc chắn là người nổi bật nhất. Dưới trướng Hưng Đạo Vương còn có rất nhiều những gia nô, gia tướng xuất sắc khác như Yết Kiêu, Dã Tượng, Nguyễn Địa Lô, Phạm Ngũ Lão… Trong số những người trên thì Phạm Ngũ Lão là một người văn võ toàn tài, dũng tướng đã có những đóng góp to lớn vào sự nghiệp đánh đuổi ngoại xâm, giữ yên bờ cõi cho Đại Việt.
Cơ duyên đưa Phạm Ngũ Lão trở thành ái tướng của Hưng Đạo Vương
Phạm Ngũ Lão (1255-1320) là người làng Phù Ủng, huyện Đường Hào (nay thuộc huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên) trong một gia đình nghèo. Ông lớn lên trong bối cảnh đất nước đang chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông lần thứ hai.
Ngay từ khi còn nhỏ, ông đã chăm chỉ học tập và rèn luyện văn võ. Ông cũng nổi tiếng là người có chí khí mạnh mẽ, không chịu khuất phục ai. Khi làng tổ chức ăn mừng cho người vừa đỗ Tiến sĩ thì ông không đi. Mẹ ông hỏi lý do và ông đã trả lời: chí làm trai phải lập công danh rạng rỡ non sông mà con chưa lập được bằng người, đi mừng người ta nhục lắm.
Một hôm, ông đang ngồi chẻ tre đan sọt bên đường cái quan, vì mải suy nghĩ chuyện quốc gia nên không biết có đoàn quân của Hưng Đạo Vương đi qua. Thậm chí, một tên lính dẫn đường lấy giáo đâm vào đùi ông chảy máu nhưng ông vẫn không hay biết.
Sách "Vũ trung tùy bút" của Phạm Đình Hổ có chép lại đoạn đối đáp giữa ông và Hưng Đạo Vương như sau: "Khi võng Hưng Đạo Vương đến, Vương mới hỏi: 'Đùi nhà ngươi bị đâm như thế, sao không biết đau, mà lại cứ ngồi như vậy?'. Ông thưa rằng: 'Tôi đương nghĩ mấy câu trong binh thư, nên không nghe thấy gì cả'. Vương bèn dừng võng lại, hỏi thử binh cơ mưu lược, thì ông ứng đối trôi chảy".
Duong cong danh va cach danh giac hiem co cua dung tuong nha Tran
Phạm Ngũ Lão ngồi đan sọt bên đường. Ảnh minh họa 

Sau đó Hưng Đạo Vương đã tiến cử ông với vua Trần Thánh Tông và xin cho ông chức cai quản quân Cấm vệ. Nhưng quân sĩ không phục và thách đấu với ông. Ông đã xin về quê luyện tập suốt ba tháng, sau đó ông quay về kinh so tài với bọn vệ sĩ. Ông tay đấm chân đá, bay nhảy nhẹ nhàng, sức có thể đấu muôn người đã làm cho bọn vệ sĩ bái phục. Hưng Đạo Vương mến tài đã phá lệ gả con gái Anh Nguyên cho Phạm Ngũ Lão (nhưng giả làm con gái nuôi do quy định của triều Trần không gả người trong hoàng gia cho người ngoài).

Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông lần thứ hai (1285), ông giúp Thượng tướng Trần Quang Khải đánh thắng trận Chương Dương, sau đó cùng Nguyễn Khoái đánh tan quân Thoát Hoan ở bến sông Sách. Trong cuộc chiến lần thứ ba (1288), Phạm Ngũ Lão đã cùng Nguyễn Chế Nghĩa phục binh ở ải Nội Bàng phục kích quân Nguyên trên đường rút chạy và giành được thắng lợi.
Duong cong danh va cach danh giac hiem co cua dung tuong nha Tran-Hinh-2
 Phạm Ngũ Lão đánh giặc Nguyên - Mông. Ảnh minh họa

Sau khi cuộc chiến tranh kết thúc, dũng tướng của Trần Hưng Đạo liên tục được thăng quan tiến chức. Sách Danh tướng Việt Nam (tập 1) của Nguyễn Khắc Thuần đã tổng kết lại con đường làm quan của ông như sau:

“Năm Canh Dần (1290), ông được giao chức quản lĩnh quân Thánh Dực của triều đình.
Năm Giáp Ngọ (1294) nhờ lập công khi đi đánh Ai Lao, ông được ban Kim Phù (tức binh phù làm bằng vàng).
Năm Đinh Dậu (1297) cũng nhờ lập công khi đi đánh trận ở Ai Lao, ông được ban Vân Phù (tức binh phù có khắc chạm hình mây)
Năm Mậu Tuất (1298), ông được phong làm Kim Ngô Hữu Vệ Đại tướng quân.
Năm Tân Sửu (1301), ông được phong làm Thân vệ Đại tướng quân và được ban Quy Phù (tức binh phù có chạm hình con rùa).
Năm Mậu Ngọ (1318), ông lại lập công lớn khi đi đánh Chiêm Thành, được thăng làm Quan Nội Hầu và được ban Phi Ngư Phù (tức binh phù có chạm hình con cá chuồn). Cũng năm này, triều đình đã cho con ông làm quan”.
Dũng tướng tay không cầm tre đánh giặc
Dưới thời nhà Trần, ngoài quân Nguyên – Mông thì quân Ai Lao và Chiêm Thành cũng thường sang cướp phá, xâm lấn nước ta. Ai Lao và Chiêm Thành cũng giống như Đại Việt đều có đội tượng binh hùng mạnh và tinh nhuệ. Quân Nguyên – Mông cũng như những đội quân xâm lược của các triều đại Trung Quốc khác đều rất sợ sức mạnh của tượng binh người Việt.
Khi quân Ai Lao xâm lấn nước ta, Phạm Ngũ Lão đã hai lần giao chiến với quân Ai Lao và đều giành được thắng lợi. Phạm Ngũ Lão có lẽ là danh tướng hiếm hoi dám một mình cầm tre đánh tan đội tượng binh của giặc. Sách Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ chép lại giai thoại này như sau:
“Về sau, nước Ai Lao vào ăn cướp, đem voi bày trận xông vào, không ai chống được. Ông được lệnh đem quân đi đánh. Ông sai chặt gốc tre vạc nhọn, dài độ vài thước, chất cả bên đường, rồi vẫy cho quan quân lui lại, một mình xông vào đánh nhau với giặc. Giặc thả voi ra đuổi. Ông cứ xông vào lấy những đoạn tre ở bên đường đâm vào móng chân voi. Voi đau phải lui. Trận giặc đại loạn. Quan quân xông vào đánh vỡ tan”.
Duong cong danh va cach danh giac hiem co cua dung tuong nha Tran-Hinh-3
Sức mạnh đáng sợ của kỵ binh. Ảnh minh họa 
Sách "Tang thương ngẫu lục" của Phạm Đình Hổ và Nguyễn Áng cũng có nhắc đến sự kiện này như sau: “Bấy giờ, tù trưởng Ai Lao đem hơn một vạn con voi kéo sang cướp phá các trấn Hoan, Diễn; đi đến đâu thì quân bộ, quân kỵ của ta đều phải vỡ chạy. Triều đình sai ông đi đánh. Ông truyền cho những dân ngoài biên, làng nào cũng phải chặt những khúc tre dài 5, 6 thước, để tích sẵn đấy.
Khi gặp giặc, ông xua quân đứng lùi lại, một mình đi chân không vào, vớ những khúc tre mà đánh vào chân voi. Voi đau, kêu rống lên rồi chạy tán loạn. Quân Ai Lao đương đêm phải trốn”.
Sách "Thuyết Trần – sử nhà Trần" của Trần Xuân Sinh còn cung cấp thêm một câu chuyện khác như sau: “Khi Ngũ Lão còn hàn vi, xin với mẹ đi tìm kế lập công danh, ở trong nước chưa có dịp, bèn sang ở chăn voi cho vua Lào. Ngũ Lão cầm lá cờ đỏ dạy voi, tùy theo hiệu cờ phất thì voi tiến, thoái hoặc quỳ xuống hết. Về sau quân Lào sang cướp vùng Thanh Nghệ, có các đội tượng binh xung kích rất lợi hại. Ngũ Lão phụng mệnh đi đánh. Người Lào thúc voi xông vào trận, Ngũ Lão mới phất cờ, đàn voi trông thấy, quen theo thói cũ, cứ tuân lệnh ông phục cả xuống. Vì thế thắng được quân Lào dễ dàng”.
Khi ông mất, vua đã cho nghỉ chầu 5 ngày. Sau đó, triều đình đã phong ông làm phúc thần và cho dựng miếu thờ ở ngay nền nhà cũ.

Kỳ lạ những vị tướng người Hán trong khởi nghĩa Hai Bà Trưng

(Kiến Thức) - Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng để lại nhiều dấu ấn trong lịch sử, văn hóa, tín ngưỡng và nhiều điều đặc biệt liên quan. Một trong những điều đặc biệt ấy là sự có mặt của những vị tướng người Hán dưới lá cờ đại nghĩa do hai nữ kiệt người Việt khởi xướng.

Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng diễn ra vào tháng giêng năm Canh Tý (năm 40) nhanh chóng giành được thắng lợi nhờ được nhân dân khắp các quận huyện trong cả nước nhất tề nổi dậy hưởng ứng tạo thành một sức mạnh không gì ngăn cản được. Đánh giá về cuộc khởi nghĩa này, sách sử chép: “Các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố đều hưởng ứng, lấy được 65 thành ở Lĩnh Nam” (Đại Việt sử ký toàn thư).

Vị tướng mà Lưu Bị không nên thả đi, thực lực sánh ngang ngũ hổ tướng

Thời Tam Quốc có một nhân vật thực lực không hề thua kém Ngũ hổ tướng nhưng Lưu Bị không thể níu giữ được, sau lại được Tào Tháo trọng dụng và lập được vô số chiến công.

Mãnh tướng đi theo Lưu Bị chinh chiến từ hồi đầu không chỉ có Quan Vũ và Trương Phi.
 Mãnh tướng đi theo Lưu Bị chinh chiến từ hồi đầu không chỉ có Quan Vũ và Trương Phi.
Thời kỳ Tam Quốc, Lưu Bị và Tào Tháo giống như nước với lửa, luôn đối nghịch từ tính cách, tư tưởng cho đến cách dụng binh, dùng người.
Tào Tháo mang tiếng là gian hùng thì ngược lại Lưu Bị được coi là hiền nhân, vì vậy mà Hoàng đế nhà Thục Hán nhận được sự phò tá của rất nhiều nhân vật nổi tiếng nhất trong thiên hạ bấy giờ như Quan Vũ, Triệu Vân, Trương Phi, Hoàng Trung, hay thậm chí có được cả Ngọa Long Khổng Minh và Phượng Sồ Bàng Thống.
Ấy vậy vẫn có một nhân vật thực lực không hề thua kém Ngũ hổ tướng mà Lưu Bị không thể níu giữ được, sau lại được Tào Tháo trọng dụng và lập được vô số chiến công, người này là Điền Dự.
Điền Dự là tấm lá chắn kiến cố phía Bắc của Tào Tháo.
Điền Dự là tấm lá chắn kiến cố phía Bắc của Tào Tháo. 
Điền Dự tự là Quốc Nhượng, không quá nổi tiếng trong Tam Quốc. Tuy nhiên, vào giai đoạn trước khi Lưu Bị bắt đầu khởi nghĩa, cùng với ông đánh thiên hạ, ngoài Quan Vũ và Trương Phi mà hậu thế đều biết thì còn có Điền Dự.