Dự thảo Báo cáo chính trị thể hiện rõ tầm nhìn chiến lược, 5 quan điểm nhất quán, mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2045 và các mục tiêu, chỉ tiêu phát triển đến năm 2030, thể hiện quyết tâm chính trị cao trong xây dựng, phát triển đất nước trong giai đoạn mới, kế thừa thành tựu to lớn sau gần 40 năm đổi mới. Các nội dung trong dự thảo được xây dựng công phu, đầy đủ các lĩnh vực trọng yếu từ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, khoa học công nghệ, giáo dục, chuyển đổi số và hợp tác quốc tế.
Với vai trò là nhà khoa học, tôi xin góp một số ý kiến vào hai nội dung về khoa học công nghệ và nông nghiệp như sau:
Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, động lực phát triển đất nước
Trong Dự thảo Báo cáo chính trị đã nêu rất rõ quan điểm, xác lập mô hình tăng trưởng mới, lấy khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia là động lực chính và phát triển kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất; hoàn thiện thể chế phát triển gắn với thực hiện đồng bộ 4 chuyển đổi: Chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, chuyển đổi năng lượng, chuyển đổi cơ cấu và chất lượng nguồn nhân lực, thu hút, trọng dụng nhân tài, đẩy mạnh phát triển lực lượng sản xuất mới là hoàn toàn đầy đủ, đúng đắn và có tính khả thi cao.
Dự thảo đã thể hiện quyết tâm cao thực hiện có hiệu quả Nghị quyết 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Dự thảo cũng đặt trọng tâm vào việc khơi thông nguồn lực xã hội, khuyến khích khu vực tư nhân sẵn sàng đầu tư cho nghiên cứu và phát triển công nghệ theo Nghị quyết 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân. Tuy nhiên, từ Nghị quyết của Đảng đến việc thực thi của Chính phủ vẫn còn khoảng cách khá lớn.
Về cơ chế, thể chế, chính sách đối với việc đặt hàng các Đề tài, Dự án khoa học công nghệ còn nặng về hành chính sự nghiệp, từ cấp trên như các bộ, ban, ngành, các sở khoa học công nghệ hoặc các sở chuyên ngành của các lĩnh vực chuyên môn khác nhau. Vì vậy, kết quả khó có thể đưa vào thực tiễn nhanh chóng và có hiệu quả.
Chúng tôi kiến nghị, các đề tài, dự án khoa học công nghệ phải xuất phát từ nhu cầu thực tế, nhu cầu của thị trường. Ví dụ trong nông nghiệp, đề tài về tạo giống cây trồng, vật nuôi mới phải do doanh nghiệp về giống cây trồng, vật nuôi hoặc do nhu cầu của người nông dân, hoặc nhu cầu của thị trường.
Cần có cuộc cách mạng trong thủ tục đánh giá, nghiệm thu các đề tài, dự án, thực hiện ngay cơ chế tài chính khoán chi đến sản phẩm cuối cùng, không khoán chi từng phần như hiện nay. Đơn giản tối đa thủ tục thanh toán, nghiệm thu đề tài, dành tối đa thời gian cho nghiên cứu thay vì dành quá nhiều thời gian cho thủ tục thanh quyết toán đề tài.
Về kinh phí thực hiện các đề tài, dự án hiện nay phụ thuộc chủ yếu vào bộ phận tài chính, trong khi Nghị quyết của Đảng, Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo nêu rõ sẽ cung cấp đủ kinh phí cho các đề tài, nhưng trong thực tế, tổ thẩm định kinh phí vẫn do bộ phận tài chính quyết định, trong khi thành phần Hội đồng khoa học xét duyệt chưa được coi trọng.
Trong nghị quyết của Đảng và trong dự thảo báo cáo trình Đại hội XIV nêu rõ, cần ưu tiên đầu tư cho các công nghệ chiến lược, công nghệ lõi, nhưng trong thực tế đầu tư cho các nghiên cứu cơ bản còn rất hạn chế. Cần phân biệt rõ ràng các nghiên cứu cơ bản, phải do Nhà nước đầu tư, còn các nghiên cứu ứng dụng sẽ theo cơ chế tự chủ.
Nghị quyết 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân và trong dự thảo báo cáo chính trị Đại hội XIV nêu rõ muốn khoa học công nghệ là động lực phát triển kinh tế xã hội thì khoa học phải gắn với doanh nghiệp.
Phát triển nông nghiệp xanh- hướng đi chiến lược
Trong dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XIV nêu rõ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng xanh, sinh thái, tuần hoàn, theo chuỗi giá trị, có hiệu quả. Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ, chuyển đổi số trong nông nghiệp, phát triển các vùng sản xuất hàng hóa lớn, chất lượng và giá trị cao, gắn với chế biến sâu và xây dựng thương hiệu sản phẩm; phát triển các hình thức tổ chức và liên kết sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp và nông thôn; mở rộng thị trường xuất khẩu nông sản, xây dựng các chuỗi sản xuất, liên kết tiêu thụ sản phẩm là rất rõ ràng, mang tầm chiến lược.
Tuy nhiên, trong thực tế, trên 90% nông sản xuất khẩu vẫn chủ yếu là xuất thô, hay còn gọi là nông nghiệp cơ bắp. Vậy Chính phủ, cụ thể là các bộ có liên quan cần có chương trình hành động cụ thể, phân công rõ trách nhiệm thuộc về ai. Về sản xuất và vùng nguyên liệu phải do Bộ Nông nghiệp và Môi trường, về công nghiệp nông nghiệp và tiếp xúc thương mại phải do Bộ Công Thương, về đầu tư phải do bộ Tài chính...
Để kim ngạch xuất khẩu nông sản đạt mức 3 con số trở lên (dự kiến năm nay đạt khoảng 70 tỷ đôla), dự thảo đã nêu rõ chế biến sâu và xây dựng thương hiệu sản phẩm. Thể chế có rồi, phải hành động ngay thôi.
Trong nông nghiệp, về hệ thống tổ chức các viện nghiên cứu còn dàn trải, trùng lặp, riêng khối trồng trọt với số lượng 19 viện và trung tâm, với trên 3000 cán bộ khoa học, nhưng vẫn chưa phân biệt đâu là nghiên cứu cơ bản, đâu là nghiên cứu ứng dụng, ví dụ nghiên cứu về ngân hàng gen cây trồng, nghiên cứu di truyền, chỉnh sửa gen trong chọn giống cây trồng và vật nuôi hoặc nghiên cứu cơ bản về phát sinh đất, sức khỏe đất phải là nghiên cứu cơ bản, nhưng hiện nay các viện này vẫn phải theo cơ chế tự chủ như các đơn vị nghiên cứu ứng dụng.
Về cơ chế tự chủ cho các viện nghiên cứu ứng dụng cần phải tạo cơ chế tự chủ toàn diện và triệt để. Hiện nay là cơ chế tự chủ nửa vời. Các viện nghiên cứu có cơ sở đất đai hàng trăm ha, phòng thí nghiệm trọng điểm hàng triệu đô la, thì phải được liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp để cùng nhau tạo ra sản phẩm cuối cùng có giá trị cao. Nhưng thực tế hiện nay vẫn chưa thực hiện được mối liên kết này. Nghị quyết 57 và 68 là quá rõ ràng, nhưng quy định của Chính phủ vẫn chưa cụ thể, còn nhiều vướng mắc về Luật Đất đai, Luật Tài sản công...
Trong dự thảo nêu rõ mục tiêu, đến năm 2045 người dân có thu nhập cao, Việt Nam là nơi đáng sống. Thực tế, Việt Nam có tới khoảng 60% dân số sống ở nông thôn, phong trào xây dựng nông thôn mới đã đạt nhiều thành tựu nổi bật, song số hộ nghèo vẫn còn. Trong dự thảo có nêu mục tiêu, chỉ tiêu phát triển chủ yếu 5 năm 2026-2030 về tỷ lệ hộ nghèo (theo chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2026-2030) duy trì mức giảm 1-1,5 điểm %/năm còn khó hiểu. Cần nêu rõ hiện nay tỷ lệ hộ nghèo là bao nhiêu, đến năm nào Việt Nam sẽ không còn hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều?
Những nội dung góp ý nêu trên đều xuất phát từ thực tiễn, hiện trạng về khoa học công nghệ và phát triển nông nghiệp của Việt Nam trải qua gần 40 năm đổi mới, rất nhiều thành quả đã đạt được. Đặc biệt, nông nghiệp Việt Nam không chỉ là trụ đỡ của nền kinh tế, nông nghiệp là nền tảng của an ninh lương thực quốc gia và an ninh lương thực toàn cầu, nông nghiệp còn là trụ cột của an sinh xã hội.
Vì vậy rất mong Đại hội Đảng khóa XIV lần này sẽ có bước đột phá trong phát triển kinh tế nông nghiệp, công nghiệp nông nghiệp, nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp xanh, nông nghiệp tuần hoàn góp phần đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững.
GS. TSKH Trần Đình Long là Chủ tịch Hội giống cây trồng Việt Nam, Ủy viên Hội đồng Trung ương Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, Ủy viên Hội đồng tư vấn Khoa học, Công nghệ và Chuyển đổi số, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.