Danh y nổi tiếng nào chữa bệnh cho hổ?

Tương truyền tập tục đó liên quan danh y Lý Thời Trân đời nhà Minh (Trung Quốc).

Truyền thuyết cứu chữa bệnh cho hổ

Tương truyền, một hôm Lý Thời Trân đang lên núi hái thuốc, đột nhiên có một con hổ vằn tiến đến gần. Ông sợ khiếp vía, lúc này bỏ chạy cũng không kịp, đành đứng ngây ra đấy phó mặc định mệnh.

Danh y noi tieng nao chua benh cho ho?

Thật không ngờ con hổ tiến đến gần thì dừng lại, đưa ánh mắt như cầu cứu nhìn về phía Lý Thời Trân, kêu một tiếng bi thảm. Cảm thấy thật kỳ lạ, theo thói quen nghề nghiệp, ông nghĩ: "Hay là con hổ này bị bệnh, muốn tìm mình để mong được cứu chữa?".

Ông hỏi con hổ một câu: "Ngươi muốn tìm ta khám bệnh phải không?", con hổ vẫn nhìn và rên rỉ. Ông hỏi tiếp: "Nếu ngươi muốn tìm ta khám bệnh thì gật đầu 3 cái".

Chuyện kỳ lạ lại xảy ra, quả nhiên con hổ gật đầu 3 cái, rồi ngoan ngoãn nằm xuống. Lý Thời Trân tiến đến gần, quan sát kỹ, đúng là dưới bụng nó có một vết thương lở loét mưng mủ. Ông lau sạch chỗ miệng vết thương, lấy lá thuốc đắp vào chỗ vết thương, vỗ vỗ đầu hổ nói: "Đi đi, chỉ vài ngày là khỏi thôi". Con hổ đứng dậy, dùng lưỡi liếm quanh tay ông, vẫy đuôi rồi đi, được vài bước lại quay đầu nhìn ông rồi mới đi hẳn.

Hơn 1 tháng sau, Lý Thời Trân lại lên núi lấy thuốc, thấy con hổ lần trước ông đã chữa bệnh đã khỏi quỳ xuống trước mặt cản không cho ông đi và vẫy đuôi liên tục. Lý Thời Trân chợt nghĩ ra: "Có phải ngươi muốn ta cưỡi lên lưng?". Con hổ gật đầu 3 cái, cõng ông lên núi.

Từ đó, cứ mỗi khi ông lên núi hái thuốc thì con hổ xuống đứng chờ ở chân núi. Sau này con hổ đó còn đưa ông đi đến nhà bệnh nhân khám bệnh khiến không ít lần dân làng sợ khiếp vía tháo chạy.

Lý Thời Trân dặn hổ đứng chờ ở cổng nhà bệnh nhân, còn ông vào nhà khám bệnh. Tuy mọi người đều biết chuyện nhưng trong lòng vẫn lo sợ, do vậy ông nói với hổ: "Sau này ngươi không phải chờ ta ở cổng nhà bệnh nhân nữa. Ta sẽ bảo bệnh nhân đem bã thuốc đổ ở gần cổng, thì ngươi biết ta đang khám bệnh ở gần đó, chờ ta ra ngươi mới đến gặp".

Người nhà bệnh nhân và con hổ nghe theo lời dặn của ông cứ thế làm. Tục đem bã thuốc đổ ở xung quanh cổng nhà được lan truyền ngày một rộng ra và từ đời này qua đời khác.

Ý tưởng táo bạo

Lý Thời Trân là người Kỳ Chân (nay là tỉnh Hồ Bắc), sinh năm 1518, nhà nhiều đời làm nghề y. Ông nội ông làm nghề bán thuốc rong, đi khắp hang cùng ngõ hẻm tay cầm chuông lắc để bán thuốc chữa bệnh nên người ta gọi là "y chuông". Lúc nhỏ Lý Thời Trân rất ốm yếu và đã mắc bệnh lao phổi, may có cha y thuật cao siêu, cho uống rất nhiều thuốc, cứu sống con. Lý Thời Trân rất say mê đọc sách y dược, thường theo cha lên núi hái thuốc.

Năm con 12 tuổi, người cha bắt Lý Thời Trân học hành đi thi lấy công danh. Lý Thời Trân không muốn cha thất vọng đành phải theo lời, nhưng thực lòng chỉ muốn làm một thầy thuốc dân gian. Kết quả là 3 lần thi ông không đậu, người cha đành thở dài không ngăn cản nữa.

Một hôm có ngư dân tên là Lão Bàng đến tìm Lý Thời Trân nhờ xem bệnh cho vợ. Ông vội đến nơi, thấy bệnh nhân hầu như không còn thở nữa, nhưng sau khi bắt mạch thấy chưa đến mức nguy kịch, hỏi chuyện: "Ông đã cho bà nhà uống thuốc gì rồi?".

Lão Bàng đáp: "Hôm qua bà nhà tôi hơi mệt. Vừa lúc đó có một ông lang đi qua, liền mời ông ta khám và chữa giúp. Không ngờ uống thuốc xong lại ra nông nỗi này".

Lý Thời Trân cầm thang thuốc từ tay Lão Bàng, xem kỹ thấy đơn thuốc không có nhầm lẫn, thế thì phải chăng pha nhầm thuốc? Ông đem bã thuốc ra xem, đối chiếu từng vị một, phát hiện có một vị thuốc gọi là Hổ chưởng trong đơn thuốc không kê lại có trong bã thuốc, còn vị Lậu Lam Tử trong đơn thuốc có mà trong bã lại không thấy. Vậy là đã rõ thang thuốc pha nhầm.

Lý Thời Trân giải thích: "Cái này cũng không nên trách thầy thuốc, trong sách viết là Lậu Lam Tử lại có nơi gọi là Hổ chưởng, người bốc thuốc tưởng là hai loại thuốc này có thể dùng lẫn lộn. Cũng may là phát hiện sớm, uống thuốc giải độc sẽ không có chuyện gì".

Về đến nhà, Lý Thời Trân vẫn suy nghĩ mãi câu chuyện vừa rồi và liên tưởng lại nhiều việc giống như vậy. Ông nhớ lại trong quá trình hành nghề thường phát hiện một số thuốc không giống với sách y cổ đã viết, có loại thuốc hiệu quả điều trị, có loại không. Nếu cứ theo sách cũ dùng thuốc, khó tránh khỏi bốc nhầm.

Ông quyết tâm đem những sách y đời xưa còn để lại chỉnh lý toàn bộ, sửa chữa những sai lầm trong sách; và những phần trong sách còn thiếu chưa đủ thì bổ sung vào.

Chu du khảo sát dược liệu

Chuẩn bị 10 năm, tài liệu Lý Thời Trân viết ra đã chất đầy mấy tủ, đặt tên cho trước tác này là "Bản thảo cương mục", vì ông nghĩ cần phân loại lại bộ sách này, phân chia ra các ngành, bộ, họ cho rõ ràng để tiện tra cứu.

Danh y noi tieng nao chua benh cho ho?-Hinh-2

Nhưng khi chính thức bắt tay vào viết, ông cảm thấy rất khó; điều đau đầu nhất là hình dạng và sự sinh trưởng của rất nhiều cây thuốc còn chưa được rõ. Trong một số sách cổ có giải thích nhưng không có hình vẽ, ngôn từ không rõ làm cho ông rất khó sửa.

Lý Thời Trân quyết định đi thực địa điều tra. Ông kê tên, họ những cây thuốc cần biết rõ, điều tra nơi sản xuất trước, sau đó mới tìm hiểu thêm bên ngoài; khảo sát không được thì mời người bản địa chỉ dẫn. Mọi người biết được ý đồ của ông đều vui vẻ giúp đỡ, có người còn đích thân dẫn đi. Ông vừa xem vừa ghi chép tỉ mỉ.

Khảo sát đó kéo dài 3 năm. Trong nhà ông chất đầy những tiêu bản động thực vật có thể làm thuốc trị bệnh; treo đầy các sách có vẽ chim, động vật, côn trùng, cỏ; trong vườn trồng đầy những thảo dược.

Một lần triều đình cho mời tất cả danh y các nơi về kinh thành, Lý Thời Trân không muốn làm ông quan thầy thuốc, chỉ muốn được đến Thái y viện hoàng gia vì trong đó có rất nhiều sách y cất giấu kỹ và các dược liệu quí, đồng thời ông cũng tranh thủ đọc được nhiều sách. Qua năm thứ hai ông mượn cớ cáo biệt về nhà.

Về quê hương, ông vừa hành nghề y vừa viết sách. Vì còn rất nhiều thảo dược ông chưa được tiếp xúc nên đến năm 47 tuổi ông lại quyết định lần thứ hai đi thực địa khảo sát hết 4-5 năm.

Tác phẩm y dược nổi tiếng

Để viết quyển "Bản thảo cương mục", Lý Thời Trân đã tích lũy tư liệu, chỉnh lý thành một quyển dược điển, rồi còn vẽ hình, nên đã kêu gọi nhiều người cùng bắt tay vào làm việc: Người sao chép lại, người vẽ hình, người hiệu đính... Qua 3 lần sửa chữa bổ sung, trước tác đã được hoàn thành với thời gian 27 năm, khi Lý Thời Trân 60 tuổi.

"Bản thảo cương mục" chia thành 52 tập, các sách xếp lại cao đến mấy thước. Trong sách thu thập 1.892 dược liệu, kèm theo 1.100 hình vẽ hình cây thuốc, hơn 11 ngàn bài thuốc.

Bản thảo tuy đã hoàn thành nhưng in nó thành sách để truyền bá khắp nơi quả là một việc không đơn giản. Lúc bấy giờ muốn in sách phải tự bỏ tiền ra thuê người xếp chữ. Lý Thời Trân làm sao có được nhiều tiền như thế, ông đi khắp nơi vay tiền nhưng không kết quả. Cho mãi đến 12 năm sau, một vị thương nhân đã bỏ tiền ra in, lúc này Lý Thời Trân bị bệnh, qua năm thứ hai bệnh ông càng nặng hơn và đã chết. Trước khi chết ông lại dặn dò người nhà phải đem quyển sách này truyền bá rộng rãi làm phúc cho dân gian...

Con cháu Lý Thời Trân nhớ lời dặn của cha, tìm mọi cách dâng tặng cho vua, kỳ vọng dựa vào sức mạnh của triều đình để truyền bá rộng rãi quyển sách. Sau này sách được lưu truyền ra nước ngoài và dịch thành nhiều thứ tiếng, được công nhận là "trước tác y dược vĩ đại Đông phương". Cho đến ngày nay quyển sách này vẫn là quyển sách gối đầu giường cho các thầy thuốc đông y.

Vì sao phi tần sau khi thị tẩm xong không được ở lại cung Hoàng đế?

Nguyên nhân lý giải cho việc này bắt nguồn từ một quy định có từ thời nhà Minh mà Hoàng đế Thanh triều phải tuân theo.

Quy định về thị tẩm dưới thời nhà Thanh

Hoàng đế xã hội phong kiến Trung Hoa thường được biết đến là những người sở hữu tam cung lục viện với số lượng phi tần cung nữ lên đến hàng trăm người, mỗi tối muốn ai đến thị tẩm thì gọi người đó, đêm đêm làm tân lang, mỗi ngày đổi một tân nương.

Song không phải Hoàng đế triều đại nào cũng được làm như thế, đặc biệt là Hoàng đế nhà Thanh kể ra còn "thảm" hơn chúng ta nghĩ nhiều.

Sau khi nhà Thanh tiến vào trung nguyên, người Mãn dần bị Hán hóa, lễ giáo Nho gia có ảnh hưởng rất lớn đến các vị Hoàng đế nhà Thanh. Bởi vì nhà Thanh được người Mãn lập nên, vì thế để có được sự công nhận của Nho gia, các vị Hoàng đế nhà Thanh lại càng coi trọng lễ giáo hơn bất kỳ Hoàng đế vương triều nào trong lịch sử. Chính vì thế cho nên các quy tắc trong Hoàng cung nhà Thanh lại càng nghiêm khắc hơn các triều đại khác.

Theo quy tắc trong Hoàng cung nhà Thanh, Hoàng đế không chỉ không được phép tùy ý sủng hạnh cung nữ, hơn nữa cũng không thể tùy tiện cùng phi tần qua đêm.

Hoàng đế có thể lật thẻ bài chọn phi tử đến thị tẩm mỗi đêm nhưng điều đó không có nghĩa là Hoàng đế có thể giữ phi tần đó ngủ qua đêm tại tẩm cung của mình.

"Quyền được ngủ qua đêm tại cung Hoàng đế" chỉ có riêng Hoàng hậu mới có, phi tần thị tẩm xong chỉ có hai lựa chọn, một là đến cung Hoàng hậu để nghỉ ngơi, hai là quay về cung của chính mình để nghỉ ngơi. Cho nên, Hoàng đế nhà Thanh chịu rất nhiều hạn chế, không thể tự do làm điều mình muốn.

Vi sao phi tan sau khi thi tam xong khong duoc o lai cung Hoang de?

Ảnh minh họa.

Quy định trên có từ khi nào?

Hoàng đế nhà Thanh chịu nhiều khuôn khổ, gò ép như vậy, nếu muốn trách chỉ có thể trách tiền triều nhà Minh, cụ thể là trách Minh Thế Tông Gia Tĩnh Đế Chu Hậu Thông của vương triều nhà Minh.

Gia Tĩnh Đế là vị Hoàng đế Đạo giáo rất nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc, thời gian đầu khi ông trị vì, đã cống hiến rất nhiều cho quốc gia, từng cho ban hành "Gia Tĩnh tân chính", thực hiện hàng loạt cải cách.

Nhưng về sau, Gia Tĩnh Đế bắt đầu theo đuổi thuật trường sinh bất lão, sùng bái Đạo giáo, bỏ bê chuyện triều đình, quốc gia, suốt hơn 20 năm không hỏi han chuyện triều chính.

Mà việc khiến Gia Tĩnh Đế bỗng nhiên thay đổi nhiều như thế chính là bởi sự kiện "Nhâm Dần cung biến" diễn ra vào giữa những năm Gia Tĩnh.

Sự kiện này xảy ra vào đêm Gia Tĩnh Đế ngủ lại trong Dực Khôn cung của Tào Đoan Phi. Trong đêm ấy, Gia Tĩnh Đế suýt chút nữa đã bị Tào Đoan Phi cùng cung nữ của Vương Ninh Tần bóp cổ chết, may mắn nhờ có Phương Hoàng hậu kịp thời nghe tiếng chạy tới cứu giá.

Sau khi điều tra rõ ràng mới biết được Vương Ninh Tần lệnh cho cung nữ của mình hợp mưu với cung nữ ở tẩm cung của Tào Đoan Phi để tìm cách giết Gia Tĩnh Đế. Kết quả, Gia Tĩnh Đế hạ lệnh xử tội chết Vương Ninh Tần, Tào Đoan Phi, cung nữ mưu phản Dương Kim Anh cùng những người có liên quan khác.

Vi sao phi tan sau khi thi tam xong khong duoc o lai cung Hoang de?-Hinh-2

Ảnh minh họa.

Sau sự việc lần đó, Gia Tĩnh Đế ngày càng trở nên nhạy cảm, đề phòng hơn, một mình sống tại Tây Uyển, tâm hướng Đạo giáo. Vì muốn ngăn chặn con cháu đời sau của mình gặp phải chuyện như mình nên Gia Tĩnh Đế đã đặt ra quy định trong cung, đó là Hoàng đế buổi tối chỉ được ngủ một mình nếu muốn qua đêm thì chỉ có thể ngủ qua đêm cùng Hoàng hậu.

Cũng từ đó về sau, các vị Hoàng đế không thể tùy ý ngủ lại qua đêm tại tẩm cung của các vị phi tần như trước, nếu Hoàng đế muốn sủng hạnh vị phi tần nào thì chỉ có thể cho gọi đến tẩm cung của mình để "hành sự", sau khi xong việc thì phải để các nàng quay về cung của chính mình nghỉ ngơi.

Việc Gia Tĩnh Đế định ra quy tắc này được các vị triều thần trong triều nhất loạt đồng thuận, bởi vì dù gì đi chăng nữa, đây cũng là một quy tắc tốt, như vậy có thể tránh việc Hoàng đế trầm mê trong tửu sắc, cho nên hành động này của Gia Tĩnh Đế được các vị triều thần vô cùng tán dương và ủng hộ. Từ đó về sau trong hậu cung nhà Minh luôn tồn tại quy tắc này.

Quy định có phần nghiêm khắc hơn

Sau khi nhà Thanh tiến vào trung nguyên, về cơ bản đều thừa kế, tiếp nối chế độ của nhà Minh, hơn thế nhà Thanh cũng cho rằng quy định này không hề sai, nhờ nó có thể ngăn chặn việc Hoàng đế trầm mê tửu sắc cho nên vẫn tiếp tục giữ vững quy tắc này trong cung.

Vương triều nhà Thanh không chỉ kế thừa chế độ cung đình của nhà Minh, mà còn tiếp tục thay đổi khiến nó trở nên nghiêm khắc hơn cả nhà Minh. Hoàng đế nhà Thanh không cho phép cung nữ hầu hạ, cũng không được phép tùy ý sủng hạnh cung nữ.

Vi sao phi tan sau khi thi tam xong khong duoc o lai cung Hoang de?-Hinh-3

Ảnh minh họa.

Từ sau khi vua Thuận Trị nhà Thanh vào trung nguyên, vua Thuận Trị đã đề ra một quy định, để tránh việc con cháu sau này của mình hoang dâm vô độ, Thuận Trị Đế đã quy định các vị Hoàng đế đời sau không được tùy ý sủng hạnh cung nữ, bên cạnh Hoàng đế cũng không cho phép có cung nữ hầu hạ.

Theo những ghi chép trong cuốn "Nửa đời trước của tôi" do vị Hoàng đế cuối cùng của nhà Thanh là Phổ Nghi hồi tưởng lại các quy định trong cung đình nhà Thanh, theo đó trong cung đình nhà Thanh, các cung nữ chủ yếu là hầu hạ Thái hậu, Hoàng hậu, các vị phi tần cùng các nữ chủ nhân, còn bên cạnh Hoàng đế thường sẽ do Thái giám lo liệu, hầu hạ.

Trong cung cấm Thanh triều, nếu cung nữ muốn ra ngoài làm việc thay nữ chủ nhân của mình thì phải đi từ nhóm hai người trở lên, chứ không thể đi làm một mình.

Vương triều nhà Thanh nghiêm cấm việc Hoàng đế sủng hạnh cung nữ, điều này còn hà khắc hơn cả nhà Minh. Hoàng đế nhà Thanh nếu muốn sủng hạnh cung nữ thì phải do Hoàng hậu, Hoàng quý phi cùng các thành viên trong Phủ Nội vụ tiến cử, khi Hoàng đế sủng hạnh cung nữ thì bắt buộc phải có sự thống nhất quản lý sắp xếp của Phủ Nội vụ.

Theo ký ức của Phổ Nghi, vào năm 13 tuổi, khi ông đi thỉnh an Cẩn Thái Phi của vua Quang Tự, khi Phổ Nghi vừa bước vào cung, tất cả các cung nữ trong cung tự động lui ra ngoài, trong cung chỉ còn lại mỗi bà vú già hầu hạ Phổ Nghi cùng Cẩn Thái Phi trò chuyện.

Việc này chính là để ngăn chặn mọi nguy cơ từ trong trứng nước, một Phổ Nghi mới chỉ 13 tuổi cũng đã bị ngăn cấm không được tiếp xúc với cung nữ, từ đó có thể thấy quy định trong cung đình nhà Thanh nghiêm khắc đến nhường nào.  

Tại sao không thay thế thái giám bằng cung nữ để hầu hạ phi tần?

Có một lý do đặc biệt khiến người ta không thể thay thế thái giám bằng bất kỳ ai khác!

Tai sao khong thay the thai giam bang cung nu de hau ha phi tan?

Thái giám hay còn được gọi là hoạn quan là cách xưng hô để chỉ những người đàn ông bị mất khả năng sinh dục khi vào cung hầu hạ hoàng thất Trung Quốc thời cổ đại. Trong suốt chiều dài lịch sử phong kiến Trung Quốc, có rất nhiều từ ngữ được dùng để gọi những con người đặc biệt này như nội quan, nội hầu, nội thần...