Bí mật về việc làm vô nhân tính bị chôn dưới lòng đất của bậc minh quân

Trong Dương Lăng ẩn chứa một bí mật kinh hãi khiến hình tượng một vị minh quân nhân đức của Hán Cảnh Đế hoàn toàn thay đổi.

Tần thất kì lộc, thiên hạ cộng trục chi*. Sau khi Lưu Bang xây dựng triều đại, nghe lời khuyên của học giả Thúc Tôn Thông, khôi phục lại lễ giáo trước kia đã bị bãi bỏ. Từ đó, Trung Hoa cũng trở thành “Quan y thượng quốc” cùng những nghi lễ và luật lệ hà khắc. Vào thời đầu nhà Tây Hán, cuộc sống làm ăn của người dân gặp nhiều khó khăn, khó khăn trăm bề.

*Tần thất kì lộc, thiên hạ cộng trục chi: Nước Tần mất hươu, cả thiên hạ đuổi theo: ý nói đến việc tranh quyền đoạt vị

Cha con Hán Văn Đế Văn Cảnh sau đó vô cùng tán dương thuyết thống trị thiên hạ của Hoàng Lão đạo - một giáo phái của Đạo giáo (Hoàng trong Hoàng Đế, Lão trong Lão Tử), khởi xướng phương hướng trị nước “vô vi”, tức là thuận theo ý trời. Hai vị quân vương dốc lòng vì việc nước, dạy nghề nuôi tằm, không coi trọng người làm thuê hay phú thương, khuyến khích sinh đẻ, khôi phụ nguyên khí, bảo vệ hòa bình, tránh giao tranh, đặt nền móng vững chắc cho Hán Vũ Đế mở rộng biên giới, xâm chiếm đất đai, phản kích Hung nô, đánh hạ nhiều cơ sở vật chất kiên cố.

Bi mat ve viec lam vo nhan tinh bi chon duoi long dat cua bac minh quan

Hán Cảnh Đế

Văn Cảnh Nhị đế, tức Hán Cảnh Đế trọng nông ức thương, không chỉ ban thưởng hậu hĩnh cho những người nông dân làm việc chăm chỉ mà mỗi năm đều xuống ruộng tiến hành lễ tịch điền, vì con dân trong thiên hạ mà làm gương. Coi trọng đạo đức của nhân dân, dân giàu nước mạnh, thóc lúa đầy bồ, bạc vàng đầy kho. Xã hội phong kiến của Trung Quốc bước vào thời đại hưng thịnh đầu tiên. Theo câu chuyện này có lẽ ai cũng đều coi Hán Cảnh Đế là một bậc minh quân. Nhưng sau chuyện này lại là một sự thật vô cùng tàn nhẫn - một vụ tuẫn táng người sống quy mô cực lớn.

Hán Cảnh Đế cùng hoàng hậu sau khi chết được hợp táng tại Dương Lăng, nay thuộc thành phố Hàm Dương, tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc. Hán Cảnh Đế tuy nửa đời tằn tiện nhưng lăng mộ lại xây dựng với quy mô rất lớn, trong 28 năm mới hoàn thiện. Từ cách bài trí đến số lượng bảo vật trong lăng đều hết sức xa hoa.

Dù không thể sánh với Từ Hi thái hậu đời sau nhưng nhưng vào thời điểm đó đã là siêu cấp xa xỉ, từ vàng ngọc, vật dụng làm bắng sắt đến binh khí quân trang, thậm chí còn có tượng binh mã khắc họa nữ tướng ngoại tộc.

Bi mat ve viec lam vo nhan tinh bi chon duoi long dat cua bac minh quan-Hinh-2

Tàn ác nhất trong số này là dùng người sống để tuẫn táng. Mặc dù ông nội của Hán Cảnh Đế, Lưu Bang, đã bãi bỏ việc dùng người tuẫn táng này nhưng sau khi Hán Cảnh Đế mất, trong Dương Lăng vẫn xuất hiện việc làm tàn nhẫn này.

Vào những năm 70 của thế kỷ trước, người ta cũng ước tính rằng số nô lệ đã bị chôn sống ở đây không dưới 10.000 người. Càng rùng rợn hơn nữa là, xương cốt của những người này đều lộn xộn và không còn nguyên vẹn, thậm chí trên xương còn nhiều dấu vết cắt xẻ, nhiều bộ xương thậm chí còn mang trên mình những binh khí kim loại, những loại gông cùm xiềng xích để tra tấn phạm nhân, giam giữ tù nhân thời bấy giờ. Những người này đều được chôn cất rất sơ sài, không có đồ tùy táng. Các chuyên gia nhận định đây có lẽ là khu nghĩa trang dành cho tù nhân.

Không thể kiểm tra được danh tính của toàn bộ những người này. Có thể họ là những người tù nhân tại các nhà tù khu vực xung quanh mang đến đây chôn cất. Cũng có thể họ là những người tù nhân được dùng để xây lăng mộ, để không lộ các bí mật của lăng tẩm ra ngoài nên giết người diệt khẩu. Sau khi hoàn thành lăng lập tức giết chết và chôn cất ở đây.

Bi mat ve viec lam vo nhan tinh bi chon duoi long dat cua bac minh quan-Hinh-3

Tương truyền, những năm đầu của Trung Hoa Dân Quốc, ngôi mộ gần Dương Lăng đã bị những kẻ trộm mộ động tay, và bắt đầu vơ vét tất cả các bảo vật quý giá. Chúng cũng vô tình phát hiện sự tồn tại của Dương Lăng cũng những xác chết trong đó. Không bao lâu sau, một chuyên gia người Nhật yêu thích văn hóa Trung Quốc đã cùng các nhà lịch sử học khác ở Tây An tiến hành kiểm tra, đo đạc thực tế các lăng mộ hoàng tộc gồm Dương Lăng và di tích thành Trường An.

Dữ liệu đo đạc thực tế sớm nhất của Dương Lăng đến từ người Nhật Bản này. Sau khi trở về từ Trung Quốc, chuyên gia người Nhật Bản này còn viết cuốn sách một cuốn sách mang tên Nghiên Cứu Về Di Tích Lịch Sử Trường An. 13 năm sau, một người Quảng Đông có ảnh hưởng lớn đến tình hình chính trị cuối triều Thanh đã bày tỏ sự xúc động sau khi leo lên gò Dương Lăng. Người này chính là Khang Hữu Vi, người đã để lại cho Tây An bao phong ba bão táp.

Sau đó, nhờ có những bài học kinh nghiệm rút ra từ cuộc khai quật lăng mộ Minh Đạo vào những năm 50 của thế kỷ XX mà Dương Lăng đã được bảo vệ, không tiến hành khai quật. Sau đó, các khu công nghiệp và đường cao tốc sân bay được quy hoạch, các chuyên gia đã tiến hành khảo cổ quy mô lớn những khu mộ gần đó, bảo tồn được một số lăng mộ và khai quật được một số lượng lớn bảo vật quý giá từ thời nhà Hán. Trên tất cả, ý nghĩa của việc khảo cổ này chính là khám phá các sự thật lịch sử và khôi phục lại đời sống của cư dân thời bấy giờ.

Bi mat ve viec lam vo nhan tinh bi chon duoi long dat cua bac minh quan-Hinh-4

Cảnh tượng xây dựng một lăng tẩm được phục dựng lại qua tư liệu lịch sử

Trong sách, Hán Cảnh Đế Lưu Khải luôn là một người được ví như một bậc minh quân, nhưng sau khi phát hiện ra lăng mộ đã hoàn toàn thay đổi ít nhiều nhận thức của chúng ta về vị hoàng đế nhân đức, con người hoàn mỹ không bao giờ tồn tại. Cho nên, lịch sử trắng đen lẫn lộn, không hề có tiêu chuẩn rõ ràng. Chúng ta cần nhìn nhận mọi thứ đa chiều.  

Thời nhà Thanh người ta nghĩ ra cách tàn nhẫn để nối dõi tông đường

Những người nghèo thời Thanh đã phải tìm đến cách làm tàn nhẫn để được nối dõi tông đường.

Dưới các triều đại phong kiến Trung Quốc nói chung và nhà Thanh nói riêng, nếu một người đàn ông muốn cưới vợ sẽ phải tốn rất nhiều chi phí, thế nên những người nghèo, muốn đường đường chính chính cưới vợ là việc dường như không thể.

Tuy nhiên, việc nối dõi tông đường là việc vô cùng quan trọng với người Trung Quốc và các nước châu Á. Ngay cả khi chết đi cũng phải để lại con cháu trước khi chết để có người thờ cúng. Nhằm đáp ứng nhu cầu này, một hủ tục mang tên “mượn vợ” đã xuất hiện trong lịch sử.

Các gia đình nghèo không đủ khả năng để chi trả cho việc cưới vợ sẽ “mượn vợ” của người khác nhằm giúp duy trì nòi giống, song việc này đòi hỏi một khoản phí nhất định.

Thoi nha Thanh nguoi ta nghi ra cach tan nhan de noi doi tong duong

Khế ước “mượn vợ” dưới thời nhà Thanh. Nguồn: Kknews.

Không giống như xã hội hiện đại, phụ nữ thời phong kiến gần như không có địa vị trong xã hội và không được coi trọng. Đặc biệt là trong hôn nhân, phụ nữ không được tự do hôn nhân và đáng buồn hơn, họ bị coi như công cụ chỉ để sinh sản.

“Mượn vợ” cũng cần cả một quá trình phức tạp. Đầu tiên phải thông qua một người mai mối giới thiệu, sau khi người muốn “mượn vợ” nhìn trúng một cô gái, hai bên sẽ tiến hành thỏa thuận, cô dâu sẽ ra giá nếu như người đàn ông đồng ý sẽ tiến hành ký khế ước.

Khế ước là thứ quan trọng nhất, trên đó sẽ ghi thời gian vợ ở nhà người khác, thuê bao nhiêu tiền, v.v. Giá của việc cho thuê vợ được xác định tùy theo thể trạng của từng người, thường được tính dựa vào độ tuổi, ngoại hình và thời gian sống với nhau.

Điều quan trọng nhất trong việc “mượn vợ” là phải nối dõi tông đường nên có những yêu cầu về khả năng sinh sản của phụ nữ nên thời hạn thường từ 3 đến 5 năm. Một khi giao ước kết thúc người phụ nữ sẽ bị trả về và không được thấy con của mình.

Hủ tục này có thực sự tồn tại trong lịch sử?

Không chỉ là những tin đồn, tục “mượn vợ” thực sự đã được ghi chép trong nhiều tài liệu lịch sử của Trung Quốc.

Bào Siêu - một dũng tướng người Hán nổi tiếng của quân Tương (lực lượng phát triển từ lực lượng dân quân ở nông thôn trong thời kỳ Thái Bình Thiên Quốc) trong cuộc chiến tranh của nhà Thanh. Sau khi lấy vợ, do cuộc sống của Bào Siêu quá khó khăn nên ông đã cho người khác thuê vợ của mình để trang trải.

Theo các ghi chép, hủ tục "mượn vợ" kỳ lạ này đã manh nha xuất hiện từ thời Hán (202 TCN - 220). Những cuộc chiến tranh liên miên diễn ra dưới thời kỳ này đã đẩy nhiều người vào cảnh khốn cùng, đói khổ, phải bán vợ cho người khác để mưu sinh.

Thoi nha Thanh nguoi ta nghi ra cach tan nhan de noi doi tong duong-Hinh-2

Đám cưới thời cổ đại. Nguồn: Sohu.

Ngoài ra, việc xuất hiện một số lượng lớn nam giới dư thừa chính là yếu tố khiến việc “mượn vợ” trở nên phổ biến.

Ở mỗi địa phương hủ tục này lại có cách gọi khác nhau, ở Liêu Ninh được gọi là “Đáp hỏa” (Nghĩa là kết bạn), ở Quảng Tây gọi là “Ký đỗ” (Nghĩa là gửi con). Song bất kể tên gọi nào thì về bản chất vẫn giống nhau.

Việc “mượn vợ” đã vi phạm cả nhân tình và nhân tính con người. Vì vậy, nhà Thanh cũng dần ban hành luật cấm cho thuê vợ.. Song luật phát thời này vẫn chưa triệt để, việc xử phạt chỉ diễn ra khi tìm thấy khế ước thuê vợ. Nếu không có khế ước, coi như khe hở luật pháp, sự việc được nhà nước bỏ qua. Hủ tục này đã phát triển nhanh chóng vào thời nhà Thanh và chỉ bị cấm hoàn toàn khi triều đại phong kiến này sụp đổ.

Bí ẩn lăng mộ của hoàng đế Trung Quốc

Trong quá trình khai quật ở Lạc Dương, Trung Quốc, các nhà khảo cổ đã tìm thấy một hiện vật được cho là của hoàng đế nhà Hán.

Bi an lang mo cua hoang de Trung Quoc

Trước đây, các chuyên gia suy đoán chủ nhân ngôi mộ là hoàng đế nhà Hán

Các nhà khảo cổ học đã biết đến lăng mộ ở Lạc Dương, Trung Quốc từ nhiều năm trước và suy đoán đây là lăng mộ thuộc về triều đại nhà Hán. Đây có thể là lăng mộ thuộc về Hán Hoàn Đế, tên thật là Lưu Chí - vị Hoàng đế thứ 11 nhà Đông Hán và cũng là hoàng đế thứ 26 của nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc.

Trong lần khai quật một lăng mộ gần đây, một con dấu được phát hiện có tên của Hán Linh Đế.

Theo Wang Xianqiu, nhà nghiên cứu liên kết tại Viện nghiên cứu khảo cổ và di tích văn hóa thành phố Lạc Dương cho biết: “Hán Linh Đế đã cho xây dựng một lăng mộ cho Hán Hoàn Đế sau khi ông băng hà. Việc xuất hiện con dấu này biểu thị cho việc đây thật sự là lăng mộ thật của Lưu Chí.”

Lưu Chí là con trai của Lãi Ngô Hầu Lưu Tang. Sau khi Chất Đế chết, thái hậu Lương và Lương Kí bàn kế hoạch sẽ đưa Lưu Chí vào cung. Ngày Canh Dần tháng 6 năm 146 đã lập Lưu Chí làm hoàng đế và đổi niên hiệu là “Kiến Hòa”, về sau còn 6 lần đổi niên hiệu. Ông qua đời vào tháng 1/168, ở tuổi 36. Nguyên nhân cái chết chưa được xác định. 

Tào Tháo khoản đãi không bạc, tại sao Quan Vũ không theo?

Có 2 lý do khiến Tào Tháo khó có thể thay đổi được Quan Vũ.

ào Tháo có ơn rất lớn với Quan Vũ và cũng một người có tài trí kiệt xuất, tại sao Quan Vũ vẫn không chấp nhận làm việc dưới trướng của Tào Tháo? Phải chăng là Tào Tháo không biết phân biệt phải trái?

Tất nhiên là không.