Bí mật ít ai biết về đêm động phòng của vợ lẽ thời xưa

Trong quá trình nạp thiếp cho chồng, chính thê tức vợ cả không chỉ phải tham dự hôn lễ mà ngay cả chuyện sinh hoạt vợ chồng cũng cần can thiệp vào. Nguyên nhân phía sau khiến người ta không khỏi mặt đỏ tim đập.

Tại sao vợ cả phải chứng kiến "đêm tân hôn" của chồng và vợ lẽ?

Theo ghi chép lại, thời cổ đại ngoại trừ việc trọng nam khinh nữ, ngay cả phụ nữ với nhau cũng có quan niệm giai cấp rõ ràng. Tại rất nhiều gia tộc lớn, địa vị của người vợ cả chỉ đứng sau chồng mình, được coi là nữ chủ. Thế nhưng, địa vị của những người vợ lẽ chỉ cao hơn người hầu, nô bộc một chút.

Điều đáng chú ý là, vợ lẽ không có quyền được một mình qua đêm với chồng, nhất là trong đêm tân hôn. Ngày hôm đó, vợ cả và nha hoàn cũng sẽ có mặt. Không chỉ phòng tân hôn do họ sắp đặt, trang trí, khi người chồng và vợ lẽ động phòng, vợ cả và nha hoàn cũng phải đứng phía ngoài giám sát, hầu hạ.

Trước hết, người vợ cả sẽ đặt một mảnh vải trắng trên giường để xác minh xem vợ lẽ có còn giữ được sự trong trắng hay không. Đồng thời, vợ cả cũng sẽ chỉ đạo, hướng dẫn chuyện phòng the cho vợ lẽ. Tất cả là để người đàn ông mà họ gọi là chồng được thoải mái, sung sướng cả về thể chất lẫn tinh thần.

Bi mat it ai biet ve dem dong phong cua vo le thoi xua

Sau khi vợ lẽ và chồng ân ái xong xuôi, vợ cả sẽ giám sát, đưa vợ lẽ về phòng của mình. Khi người vợ lẽ an phận trong phòng, vợ cả sẽ quay lại hầu hạ chồng. Hành động này là để xác lập địa vị trong nhà, nhắc nhở vợ lẽ biết trên biết dưới.

Từ đó về sau, mọi sinh hoạt vợ chồng của vợ lẽ đều bị vợ cả giám sát chặt chẽ. Nếu có hành động vượt quá quyền hạn hoặc cố ý mê hoặc, dụ dỗ người chồng, chắc chắn sẽ bị vợ cả tìm cách để dằn mặt. Không ít trường hợp vợ lẽ vì thân cô, thế cô, được chồng yêu thương một chút mà gặp họa. Không những con không giữ được, mạng cũng chẳng còn.

Ngoài ra, cho dù vợ lẽ được sủng ái đến nhường nào cũng không được ghi vào gia phả. Sinh con ra không được nghe con gọi mẹ, kể cả con cháu ruột thịt có yêu thương, quan tâm chăm sóc cũng không thể danh chính ngôn thuận gọi là mẹ, chỉ có thể gọi là mẹ kế, thực sự rất đáng thương.

Vì sao lấy vợ lẽ thời xưa không bị coi là sai trái?

Dù có nhiều nhược điểm là thế, nhưng thời xưa, đàn ông Việt lấy vợ lẽ là điều đương nhiên. Lấy vợ lẽ cũng không trái với thuần phong mỹ tục bởi một lý do gần như là duy nhất. Đó là vấn đề thừa tự. Người xưa quan niệm việc có con nối dõi tông đường là việc cực kỳ quan trọng. Thậm chí còn có suy nghĩ, nhà nào không có con trai là do nhà đó ăn ở thất đức.

Vì việc thừa tự được coi trọng hơn cả, nên nếu người vợ cả không thể có con, mà người chồng không chịu lấy vợ lẽ nghĩa là không nghĩ đến việc thừa tự. Người đàn ông đó bị quy vào tội bất hiếu. Ngoài ra một lý do thứ yếu khác, là bởi thời xưa có quá nhiều phụ nữ nghèo khó, vất vả. Cho những người phụ nữ ấy một thân phận làm lẽ cũng là giúp họ có chỗ nương tựa.

Dù tục lấy vợ lẽ khá phổ biến thời xưa, nhưng người xưa cũng khuyên răn trường hợp nào nên lấy vợ lẽ, trường hợp nào không nên. Người đàn ông phải lượng sức mình, nếu có thể làm chỗ dựa cả đời, có thể chăm sóc đủ đầy cho vợ lẽ và đàn con của vợ lẽ thì hãy nên lấy. Nếu rước người ta về làm lẽ mà để cho người ta sống khổ sống sở, đàn con nheo nhóc, ốm đau thì đừng. Người đàn ông nếu có đủ tự tin sẽ giữ được hòa khí gia đình, cân bằng được cả hai mối quan hệ với vợ cả và vợ lẽ thì lấy vợ lẽ chẳng vấn đề gì. Nhưng nếu là người chồng vô tâm, vô trách nhiệm, góp phần làm tăng sự xung khắc giữa vợ cả vợ lẽ, sinh ra tan cửa nát nhà thì tuyệt đối đừng nghĩ đến chuyện lấy vợ lẽ.

Khi lấy rồi thì cũng phải coi người ta là một người vợ khác của mình. Người xưa luôn dạy, đừng coi vợ lẽ là kẻ sai khiến của nhà mình, đừng để cho vợ lẽ đê tiện, mà cũng đừng để cho vợ cả mất lòng.

Bản thân người vợ lẽ ở với chồng, ở với vợ cả cũng phải giữ hai chữ "kính thuận", trên thuận dưới hòa để cả gia đình ai ai cũng vui vẻ, cùng nhau xây dựng một cuộc sống bình an, hạnh phúc. Trong khi đó, người vợ cả khi đối xử với vợ lẽ cần bao dung, độ lượng, đừng giữ thói ghen tuông mà mang tiếng nhỏ nhen, bị người đời chê cười.

Giải mã bí ẩn thế giới bùa ngải thời cổ đại

Nhiều thầy pháp sư vì lợi ích cá nhân thường luyện những loại bùa ngải hại người: ngải yêu, mê tâm ngải... Những người bị trúng ngải tâm thần mê man, mất ăn, mất ngủ.

Trong thế giới của những thầy pháp sư thời cổ đại tồn tại nhiều bí kíp kỳ lạ. Bùa ngải là một trong số đó. Ngày nay khoa học đã cho thấy đó là những điều hoang đường, tuy nhiên những câu chuyện đồn đại xung quanh chúng vẫn là những điều đầy hấp dẫn và nhuốm màu huyền bí.
Giai ma bi an the gioi bua ngai thoi co dai
Ảnh minh họa. 
Thuật luyện những giống thực vật đặc biệt và truyền cho chúng những khả năng siêu nhiên để đoán biết tương lai, cải tạo số phận, hay chữa trị bệnh nan y... thời xa xưa khá thịnh hành ở nhiều nước châu Á như Trung Quốc, Ấn Độ và khu vực Đông Nam Á. Người ta gọi đó là luyện ngải và tin rằng ngải giúp con người chế ngự sức mạnh huyền bí.
Những pháp sư cao thủ dành cả cuộc đời mình để luyện "công lực". Họ có thể biểu diễn những kỹ năng kinh dị như nhúng tay vào vạc dầu sôi, hay dùng đinh đâm xuyên qua người... Sau khi đã luyện thành cao thủ, họ sẽ tìm và chăm sóc một số loài thực vật mà theo họ có khả năng đặc biệt để truyền "công lực" sang. Các thầy pháp thuộc diện cao thủ bao giờ cũng là tay chuyên luyện bùa ngải hay độc trùng. Thông qua việc nuôi ngải, luyện độc trùng, các pháp sư khẳng định quyền năng của họ, qua đó đánh giá tài cao thấp.
Theo những câu chuyện lưu truyền, loại ngải quý hiếm nhất là Phù phấn ngải. Đây là một loại thực vật giống hoa lan đất nhưng có bộ rễ lớn hơn, thường mọc trong rừng thẳm. Loại ngải này có một lớp bột mịn phủ trên lá, nếu ai vô ý đụng phải sẽ thấy ngứa ngáy khó chịu, sau đó toàn thân sưng phù, đau đớn trong khoảng 100 ngày sẽ chết nếu không được các vị cao tăng cứu chữa. Loại ngải này rất hiếm, được gọi là "Phù phấn ngải" vì lớp bột rất độc trên lá. Nhưng nếu được tôi luyện đúng cách, nó sẽ trở thành một loại ngải cứu người rất quý.
Những cao tăng muốn tìm được loại ngải này phải vào sâu trong rừng thẳm. Khi tìm được, phải loại bỏ lớp phấn độc bên ngoài một cách rất khéo rồi đem trồng vào chậu đất nung, cho các chất tượng trưng cho Ngũ hành vào (gồm có đất núi, diêm sinh, sắt, gỗ mục, muối biển).
Sau khi nuôi trồng, người ta đặt ngải lên bàn thờ và bắt đầu luyện bằng các quyền phép của bản thân. Khi ngải được luyện xong, trong nó sẽ có 2 phần được gọi là thiên năng (năng lực tự nhiên) và linh phù (năng lực của người luyện). Các tay luyện ngải cao cấp còn nuôi ngải bằng trứng gà, hoặc máu gà. Họ cho rằng làm như vậy ngải sẽ mạnh hơn. Nhưng với những người non tay, cách luyện này có thể gây nguy hại cho chính họ. Phù phấn ngải luyện xong dùng để trị bệnh mất trí, hoảng sợ, thậm chí có thể tìm được người bị mất tích.
Một loại ngải còn quý hiếm hơn và đã bị thất truyền hàng trăm năm là Bạch đại ngải. Người ta cho rằng Bạch đại ngải mọc ở đâu thì các loài thú dữ đều hoảng sợ và không dám sinh sống ở quanh đó. Nếu ai đó trồng loại ngải này mà không biết về tu luyện thì sẽ nguy hại cho bản thân. Trước khi nhổ cây, phải ngâm một bài bùa chú, đại khái: "Nhiệm màu thay, nhiệm màu thay/Bạch đại ngải, Bạch đại ngải...". Nếu loài ngải này mà được một cao tăng luyện thì sẽ có thể giúp con người cải tử hoàn sinh.
Những pháp sư chạy theo vụ lợi cá nhân thường luyện một loại ngải hại người, đó là ngải yêu hay bùa mê, thuốc lú. Đó là thứ ngải để "lừa tình". Ai bị trúng ngải đó là tâm thần mê man, không biết gì về đạo lý, bỏ nhà cửa chạy theo tiếng gọi của ái tình. Những người bị trúng ngải yêu có dáng điệu luôn suy tư, hờ hững với xung quanh.
Loại Mê tâm ngải có tác dụng tương tự. Cây mê tâm lá màu xanh sẫm to bản, hình cái kiếm, hoa màu tím đen có đốm trắng, có mùi hắc rất khó chịu. Người trúng ngải này sẽ mất ăn mất ngủ, tâm thần bất loạn. Những kẻ muốn dùng ngải mê tâm hại người bắt buộc phải biết tên tuổi của nạn nhân thì mới thành công. Những tay nuôi loại ngải này thường bị dân làm ngải coi thường, liệt vào loại mờ ám.
Giai ma bi an the gioi bua ngai thoi co dai-Hinh-2
Một cây thuộc chủng họ huyết ngải huyền thoại. 
Một loại ngải khác có tên khá kinh dị là Huyết nhân ngải. Nó mọc trong các khu rừng có thú dữ. Muốn tìm được Huyết nhân ngải, phải đợi vào đêm, khi ngải ửng lên màu đỏ như máu mới có thể nhìn thấy và nhổ được vì ban ngày lá cây màu xanh như bình thường. Hoa của loài ngải này nhỏ li ti và có màu đỏ như những giọt máu.

Hoàng đế Trung Hoa hầu như không chết vì bệnh ung thư

Hiện tại, căn bệnh ung thư là một trong những vấn đề khiến con người sợ hãi nhất, nhưng trong thời cổ đại dường như không có khái niệm này.

Trong lịch sử phong kiến Trung Hoa, có thể nói các Hoàng đế không hề chết vì căn bệnh ung thư ngoại trừ 1 người, đó là Hoàng đế Tuyên Thống.

Hoàng đế Tuyên Thống (Ái Tân Giác La Phổ Nghi) là vị Hoàng đế cuối cùng của nhà Thanh và cũng là vị Hoàng đế cuối cùng của xã hội phong kiến Trung Quốc. Năm 1962, sau khi Phổ Nghi kết hôn với Lý Thục Hiền, ông đã tiểu ra máu. Do trình độ khám chữa bệnh lúc đó vẫn còn hạn chế, bác sĩ chỉ kết luận Phổ Nghi bị "sốt bàng quang".

Cần tiêu chuẩn gì để trở thành “mỹ nhân” cổ đại

Chắc hẳn chúng ta, ai cũng đã từng nghe cụm từ “mỹ nhân cổ đại” rất nhiều lần. Thế nhưng, các bạn đã biết mỹ nhân cổ đại thực sự đẹp đến mức nào chưa.

Liệu Tứ đại mỹ nhân Trung Hoa sống ở Thế kỷ 20, họ có còn được gọi là “mỹ nhân”? Để đi tìm câu trả lời, chúng ta hãy cùng xem tiêu chuẩn để người phụ nữ cổ đại được gọi là “mỹ nhân” là như thế nào nhé! 

Can tieu chuan gi de tro thanh “my nhan” co dai

Ngực

Khác với chúng ta ngày nay, người cổ đại không cho rằng người phụ nữ đẹp nhất định phải có số đo 3 vòng nóng bỏng, cũng không nhất thiết phải có một bộ ngực lớn. Với họ, một bộ ngực đẹp đơn giản là đầy đặn và hài hòa với cơ thể.

Can tieu chuan gi de tro thanh “my nhan” co dai-Hinh-2

Da

Miêu tả vẻ đẹp của Dương Quý Phi, thơ Bạch Cư Dị có câu “Một nhành hoa lê đẫm sương xuân” chính là so sánh sắc da của mỹ nhân với sắc trắng của hoa lê. Từ ngàn đời trước, người ta đã đề cao vẻ đẹp của làn da phụ nữ. Người phụ nữ đẹp phải có làn da trắng mịn màng, làm nổi bật sắc hồng trên gò má. Người cổ đại cũng đề cao hương thơm trên làn da phụ nữ, hương thơm này không thể có được nhờ bất kỳ loại dầu thơm nào, mà phải là hương thơm tự nhiên. Ngoài Hương Phi nổi tiếng thời Thanh, tương truyền Tây Thi cũng là mỹ nữ trời sinh có thể tỏa ra hương khí!

Can tieu chuan gi de tro thanh “my nhan” co dai-Hinh-3

Tay

Người xưa thường so sánh cánh tay phụ nữ với búp của cỏ non, thanh mảnh, mềm mại, trắng ngần. Mỗi cử động nhẹ nhàng của bàn tay đều tỏa ra hương khí, hình ảnh những mỹ nhân với đôi bàn tay ngọc trên phím đàn đã đi vào thi ca cổ đại!

Can tieu chuan gi de tro thanh “my nhan” co dai-Hinh-4

Mái tóc

Mái tóc dài chấm gót, đen huyền, bồng bềnh, được búi tròn, cao trên đỉnh đầu (gọi là “vân kế vụ hoàn” – búi tóc của mỹ nữ như mây sương) là biểu tượng cho vẻ đẹp của phụ nữ xưa, có lẽ cũng là hình ảnh tạo nên sự khác biệt với phụ nữ hiện đại.

Can tieu chuan gi de tro thanh “my nhan” co dai-Hinh-5

Gương mặt

Người Trung Hoa đổ đại thích vẻ đẹp tròn đầy, tượng trưng cho sự viên mãn, phúc hậu và sức khỏe. Chính vì thế, gương mặt của một mỹ nhân cũng được “định nghĩa” là một gương mặt đầy đặn với những nét thanh tú:

“Nga mi thanh đại” chỉ hàng lông mày của người phụ nữ, được cạo đi rồi vẽ lại bằng than xanh. Chuyện vẽ lông mày phổ biến từ thời Tây Chu, được ghi lại trong “Thi kinh” và “Sở từ”.

“Minh mâu lưu phán” dùng để miêu tả đôi mắt của thiếu nữ. “Minh mâu” là cặp mắt vừa to vừa sáng. Đôi mắt đẹp không những to sáng, mà còn biết khóc, biết cười, biết đong đưa, trở thành cửa sổ tâm hồn của người phụ nữ!

Can tieu chuan gi de tro thanh “my nhan” co dai-Hinh-6

“Chu thần hạo hỉ”, “chu thần” là cặp môi đỏ mọng, “hạo hỉ” là hàm răng trắng bóng. Hai thứ này tôn vinh lẫn nhau, làm nên vẻ đẹp rạng ngời, đằm thắm của người con gái!

Nói chung dù là ở thời nào, người con gái cũng phải có một trong những tiêu chí trên thì mới được gọi là đẹp.