Bí ẩn ngọc tỷ truyền quốc của Tần Thủy Hoàng

Được tạo nên từ viên ngọc quý Hòa thị bích, ngọc tỷ truyền quốc của Tần Thủy Hoàng là món bảo vật mà các vị vua chúa về sau vô cùng muốn chiếm được.

Ngọc tỷ thực chất là một con dấu, hay ấn chương. Các nhà nghiên cứu văn hóa Trung Hoa cho rằng ấn chương đã xuất hiện từ rất sớm. Thời nhà Ân, người ta đã dùng vật nhọn để khắc hoa văn lên những hòn đá.
Biểu tượng quyền lực tối thượng
Ấn chương được xem là bằng chứng về quyền lực của người sở hữu. Dù là thương nhân hay quan lại, người mang ấn là người có thực quyền trong tay. Không còn ấn là không còn quyền.
Ngọc tỷ là ấn chương của hoàng đế, tượng trưng cho quyền lực tối thượng mà chỉ "thiên tử" mới có. Do đó, trong lịch sử hơn 2.000 năm của các triều đại phong kiến Trung Quốc từ Tần đến Thanh, các vua chúa dù là cướp ngôi hay được nhường ngôi, đều rất coi trọng việc chiếm hữu ngọc tỷ.
Bi an ngoc ty truyen quoc cua Tan Thuy Hoang
Chân dung Tần Thủy Hoàng. Tranh: Aboluowang.com. 
Thời Tiên Tần, bất luận quan ấn hay tư ấn đều gọi là "tỷ", không có sự phân biệt lớn nhỏ và cũng không thống nhất về mặt hình thức. Cho đến khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Nguyên, ông mới đặt ra quy định về việc chế tạo, danh xưng và sử dụng ấn chương.
Tần Thủy Hoàng quy định rằng "tỷ" là từ dành riêng để gọi ấn triện của hoàng đế và "tỷ" phải được làm bằng ngọc, nên được gọi là "ngọc tỷ". Ấn của quan viên được chế bằng đồng. Sự khác biệt đẳng cấp giữa các quan được quy định bằng màu sắc của dây đeo ấn.
Nói chung, quan ấn của các vương triều phong kiến Trung Quốc đi theo quy định của nhà Tần. Từ đời Hán, giấy được sử dụng một cách rộng rãi, kèm theo sự phát triển của hội họa, thư pháp, nên hình thức tư ấn rất đa dạng.
Bị chặt hai chân dù dâng ngọc quý
Sau khi Tần Thủy Hoàng diệt lục quốc, để chứng tỏ quyền uy tối cao vô thượng của mình, ông ra lệnh cho ngọc công (người am hiểu về đá quý) Tôn Thọ dùng một viên ngọc quý nổi danh đương thời là "Hòa thị bích" để tạo nên "ngọc tỷ".
Về Hòa thị bích, sử cũ còn lưu truyền câu chuyện "Biện Hòa ba lần dâng ngọc". Vào thời Xuân Thu, có người tên Biện Hòa ở nước Sở nhặt được một viên đá ngọc trên núi. Biết đây là vật báu hiếm thấy, Biện Hòa đã dâng lên Sở Lệ Vương. Sở Lệ Vương mời ngọc công đến xem qua.
Tuy nhiên, vì ngọc này thuộc loại không lộ nên người ngọc công không nhận ra, cho rằng đây là đá bình thường. Kết quả Biện Hòa bị quy tội khi quân, xử chặt chân trái. Sau này Sở Võ Vương lên ngôi, Biện Hòa lại tiếp tục dâng ngọc tặng vua, nhưng lại thêm một lần nữa hàm oan và bị chặt tiếp chân phải.
Sau khi Sở Văn Vương lên ngôi, Biện Hòa tuổi già ngồi ôm hòn đá quý dưới chân ngọn Kinh Sơn gào khóc thảm thiết. Sở Văn Vương thấy lạ, liền cho người tới tìm hiểu, sau cùng xác nhận lời Biện Hòa nói là đúng. Từ đó, viên đá quý được gọi là "Hòa thị bích" (ngọc nhà họ Hòa).
Đổi 15 tòa thành lấy ngọc
Sau khi Hòa thị bích ra đời, những truyền thuyết xung quanh nó liên tục lưu truyền. Đến đời Sở Thành Vương, Chiêu Dương diệt nước Việt và lập công to với nước Sở, được ban thưởng Hòa thị bích. Từ đây, viên đá quý bắt đầu "bôn ba".
Chuyện kể rằng, khi Chiêu Dương du ngoạn Xích Sơn, ông mở tiệc ở trên một lầu cao bên đầm nước và lấy Hòa thị bích ra cho mọi người thưởng thức. Bất ngờ một con cá to nhảy từ dưới đầm lên, kéo theo đàn cá nhỏ đủ loại. Mọi người thấy lạ liền chạy tới xem, sau đó quay trở lại thì không thấy ngọc quý đâu nữa.
Dĩ nhiên Chiêu Dương là người chán nản nhất. Ông ta nghi ngờ người học trò Trương Nghĩa đã ăn trộm nên tra tấn vô cùng độc ác. Kết quả là Trương Nghĩa quay lưng lại với nước Sở, bỏ đến nước Ngụy, cuối cùng lại làm quan nước Tần, chống lại Sở. Ngọc họ Hòa thì vẫn không tìm thấy còn Sở ngày càng có nhiều kẻ thù không đội trời chung.
Đến thời Triệu Huệ Văn Vương, Hòa thị bích bất ngờ xuất hiện tại Hàm Đan, kinh đô nước Triệu. Quan nội thị Mậu Hiền chỉ dùng năm trăm đồng vàng để mua lại vật báu này. Sau khi biết tin, Triệu Huệ Văn Vương đã nhiều lần ám chỉ muốn Mậu Hiền mang ngọc tặng lại cho mình, nhưng Mậu Hiền tiếc vật báu nên không đưa. Triệu Vương tức tối sai lính đến nhà Mậu Hiền cướp ngọc.
Câu chuyện đến tai Tần Chiêu Tương Vương. Tần vương viết thư cho Triệu vương, đề nghị dùng mười lăm tòa thành để đổi lấy ngọc. Khi đó Tần đang mạnh còn Triệu ở thế yếu, Triệu Huệ Văn Vương tiếc báu vật, không biết phải xử trí thế nào.
Giữa lúc cấp bách, viên quan Lận Tương Như đã hiến kế "hoàn ngọc quy Triệu". Trước mặt Tần vương, Lận Tương Như dọa ném vỡ Hòa thị bích, nhờ đó bảo toàn được ngọc quý. Hòa thị bích được cất trong cung đình nước Triệu một thời gian dài. Năm 228 TCN, nước Tần đánh nước Triệu và cướp được Hòa thị bích.
Bí ẩn ngọc tỷ truyền quốc
Tần Thủy Hoàng cho khắc trên ngọc tỷ làm từ Hòa thị bích 8 chữ "thụ mệnh vu thiên, ký thọ vĩnh xương" (nhận mệnh trời ban, tồn tại mãi mãi). Vị hoàng đế ôm mộng dùng ngọc tỷ này làm quốc bảo, lưu truyền cho con cháu thiên thu vạn đại về sau, gọi là "ngọc tỷ truyền quốc".
Có lẽ ông không ngờ rằng nhà Tần chỉ tồn tại được hai đời, đến Tần Nhị Thế thì diệt vong.
Sau khi Lưu Bang vào Hàm Dương, Tần Tử Anh đã giao lại ngọc tỷ truyền quốc cho Lưu Bang. Đến cuối thời Tây Hán, khi ngoại thích Vương Mãng cướp ngôi trong lúc hoàng đế Nhũ Tử Anh mới hai tuổi, ngọc tỷ lại rơi vào tay thái hậu Hán Hiếu Nguyên.
Theo Hán thư - Nguyên Hậu truyện, khi Vương Mãng cho người em Vương Thuấn đến chỗ thái hậu Hán Hiếu Nguyên đòi ngọc, bà quá tức giận đã ném mạnh ngọc tỷ xuống đất, khiến ngọc tỷ bị bể một góc. Về sau, Vương Mãng cho người dùng vàng khảm lại chỗ bể nhưng tì vết vẫn tồn tại từ đó.
Cuối thời Đông Hán, ngọc tỷ truyền quốc lại mất tích. Hán Thiếu Đế khi chạy trốn đã giấu ngọc tỷ trong cung, nhưng khi trở về thì không thấy đâu nữa. Không lâu sau, khi thái thú Tôn Kiên đánh bại Đổng Trác, ngọc tỷ truyền quốc được tìm thấy ở phía nam thành Lạc Dương.
Bi an ngoc ty truyen quoc cua Tan Thuy Hoang-Hinh-2
Ngọc tỷ truyền quốc của Tần Thủy Hoàng hiện ở đâu vẫn là một câu hỏi chưa có lời giải đáp. Ảnh minh họa: Lishiquwen.com. 
Từ đó cho đến thời nhà Đường, trải qua bao binh biến, ngọc tỷ truyền quốc cũng không ngừng đổi chủ. Món bảo vật được cho là mất tích vào thời Ngũ Đại. Từ thời Tống Thái Tổ về sau, không có ai thấy nó nữa.
Tuy nhiên, ngọc tỷ truyền quốc vẫn không ngừng xuất hiện trong các thư tịch. Vào năm thứ 3 Triệu Thánh thời Bắc Tống, một người nông dân ở Hà Nam khi đào móng nhà đã phát hiện một ngọc ấn. Hơn mười học sĩ giám định đều cho đây là ngọc tỷ truyền quốc của Tần Thủy Hoàng. Năm thứ 13 Minh Hoằng Trị lại có người phát hiện ngọc tỷ, nhưng hoàng đế cho rằng không phải đồ thật.
Từ đầu triều Thanh, một ngọc tỷ khắc 8 chữ "thụ mệnh vu thiên, ký thọ vĩnh xương" được giấu trong cung. Thế nhưng, hoàng đế Càn Long không mấy quan tâm đến vì cho đó là đồ giả. Vậy thì ngọc tỷ truyền quốc thật đang ở đâu, câu hỏi này cho đến nay vẫn chưa có lời giải.

Hoàng đế máu lạnh Tần Thủy Hoàng và cái chết thách thức hậu thế

Xung quanh cái chết của Tần Thủy Hoàng, hiện vẫn tồn tại 2 luồng quan điểm trái chiều.

Tần Thủy Hoàng (tiếng Hán: 秦始皇)(tháng 1 hoặc tháng 12, 259 TCN – 10 tháng 9, 210 TCN), tên thật là Doanh Chính (嬴政), còn có tên khác là Triệu Chính (趙政), là vị vua thứ 36 của nước Tần ở Trung Quốc từ năm 246 TCN đến 221 TCN trong thời kỳ Chiến Quốc và trở thành vị Hoàng đế sáng lập ra nhà Tần, đồng thời là hoàng đế đầu tiên của Trung Quốc thống nhất vào năm 221 TCN[3] sau khi tiêu diệt các nước chư hầu khác. Ông cai trị cho đến khi qua đời vào năm 210 TCN ở tuổi 49.

Vẻ ma mị của Craco, thị trấn bỏ hoang nổi tiếng Italia

(Kiến Thức) - Thị trấn cổ Craco có tuổi đời gần 1.000 năm, là trường quay của nhiều bộ phim do cảnh quan đặc biệt của mình.

Ve ma mi cua Craco, thi tran bo hoang noi tieng Italia
Nằm trên một ngọn núi thuộc vùng Basilicata, miền Nam Italia, thị trấn Craco có lịch sử hình thành từ thời Trung cổ, từ khoảng thế kỷ thứ 12. Ảnh: Pinterest.

Bí ẩn thân thế Tần Thủy Hoàng: Là con của Lã Bất Vi

Cuộc đời Tần Thủy Hoàng luôn đi kèm với những câu chuyện thần thoại, những tranh luận hàng ngàn năm và thân thế của ông là một trong những câu chuyện đó.

Tần Thủy Hoàng (259 TCN–210 TCN), tự Doanh Chính, sinh tại Hàm Đan (nay thuộc tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc). Tần Thủy Hoàng làm vua nước Tần khi mới 13 tuổi, năm 39 tuổi thống nhất Trung Hoa, trở thành Hoàng đế đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc.
Bi an than the Tan Thuy Hoang: La con cua La Bat Vi
 
Xuất thân ly kỳ

Mẹ của Tần Thuỷ Hoàng là Triệu Cơ. Theo truyền thuyết, Triệu Cơ từng có thời gian thân mật với thương nhân tên Lã Bất Vi.

Sau này, Triệu Cơ được Lã Bất Vi dâng cho Tử Sở, trở thành Hoàng hậu nước Tần.

Sử sách Trung Quốc ít nhiều có ghi chép về giả thuyết Tần Thủy Hoàng là con của Lã Bất Vi và Triệu Cơ khiến cho người đời sau vẫn còn tranh luận cho đến tận ngày nay.

Cuốn Sử ký của Tư Mã Thiên chép, Lã Bất Vi vốn là cự phú ở Bộc Dương (tỉnh Hà Nam, Trung Quốc). Ông là một thương nhân giàu có và nổi tiếng. Nắm trong tay tiền bạc nhiều không đếm xuể nhưng Lã Bất Vi luôn thèm muốn quyền lực, địa vị.

Năm 267 TCN, thái tử nước Tần đột ngột qua đời. 2 năm sau, vua Tần cho con thứ là An Quốc Quân làm thái tử. An Quốc Quân có hơn 20 người con, và nhiều vợ trong đó người vợ được yêu nhất được lập làm chính phu nhân, gọi là Hoa Dương phu nhân.

Tử Sở lại là con của An Quốc Quân và Hạ Cơ. Mẹ Tử Sở không được vua yêu mến nên Tử Sở phải làm con tin ở nước Triệu.
Bi an than the Tan Thuy Hoang: La con cua La Bat Vi-Hinh-2
Nhân vật Lã Bất Vi (trái) trong phim truyền hình Trung Quốc. 

Lã Bất Vi ở Hàm Đan trông thấy Tử Sở khốn khổ, bèn nảy ra ý muốn giúp Tử Sở trở thành người kế nghiệp nước Tần, gián tiếp giúp mình tiến thân.

Lã Bất Vi đưa cho Tử Sở năm trăm cân vàng tiêu dùng và đãi tân khách. Rồi lấy tiền mua của báu vật lạ, đem sang Tần, xin dâng những vật ấy cho Hoa Dương Phu nhân. Nhờ cuộc gặp này, Lã Bất Vi hết lời khen Tử Sở tài giỏi, khôn ngoan, giao hảo với người các nước, bạn hữu khắp thiên hạ.

Hoa Dương phu nhân không có con, Bất Vi khuyên nhận Tử Sở làm con nuôi. Hoa Dương phu nhân nghe theo, vào xin An Quốc Quân lập Tử Sở làm thừa tự, trở thành người nối ngôi khi An Quốc Quân qua đời.

Chẳng bao lâu, vua Tần qua đời, Tử Sở đường hoàng nối ngôi nhà Tần, Lã Bất Vi được phong làm Thừa tướng. Tham vọng chưa dừng lại ở đó, Lã Bất Vi đem người thiếp của mình là Triệu Cơ dâng lên cho Tử Sở.

Triệu Cơ về với Tử Sở chẳng bao lâu thì sinh hạ Doanh Chính, chính là Tần Thủy Hoàng sau này.

Không ngờ Tử Sở tại vị chỉ được 3 năm rồi qua đời, vì thế Tần Thủy Hoàng trở thành vua nước Tần năm 247 TCN.

Theo sử sách chép lại, Lã Bất Vi coi Doanh Chính là con mình, bảo Doanh Chính gọi mình là “Trọng phụ”. Nhờ đó, Lã Bất Vi tự mình nắm giữ chính sự cả nước, trở thành nhân vật “dưới một người, trên vạn người”.

Lý giải thân thế Tần Thủy Hoàng

Bi an than the Tan Thuy Hoang: La con cua La Bat Vi-Hinh-3
 Phác họa hình ảnh Lã Bất Vi.
Liên quan đến bí ẩn thân thế Tần Thủy Hoàng, cuốn sử ký có chép, Tần Vương Chính là do Tần Trang Tương Vương Tử Sở và Triệu Cơ sinh ra. Nhưng lúc Lã Bất Vi mang Triệu Cơ hiến tặng cho Tử Sở, thì đã biết được bà có mang, cũng có nghĩa là rất có khả năng Doanh Chính là đứa con riêng của Lã Bất Vi.

Trong cuốn Hán thư nổi tiếng, sử gia thời Đông Hán Ban Cố đã gọi Doanh Chính là con riêng của Lã Bất Vi. Câu chuyện này lưu truyền qua dân gian và được biết đến sâu rộng cho tới ngày nay.

Theo trang mạng Qulishi, nhận định về giả thuyết ngàn năm này, các học giả Trung Quốc hiện đại tổng kết thành 4 quan điểm chính.

Thứ nhất, đây có thể là quan niệm do những người trung thành với triều đình 6 nước bị Tần Thủy Hoàng tiêu diệt dựng nên. Họ căm hờn vì bị mất nước, lại phát hiện mẹ vua Tần từng là thiếp của Lã Bất Vi, nên bịa ra chuyện này nhằm hạ thấp thanh danh của vị Hoàng đế đầu tiên. Từ đó, những người này có cớ để tập trung lực lượng, tìm cách tạo phản.

Thứ hai, đây là chiến lược mà Lã Bất Vi đã vạch ra ngay từ đầu, mưu tính dùng tình cảm cha con để có được sự ủng hộ của Tần Thuỷ Hoàng, thâu tóm quyền lực về tay mình. Đó cũng là điều mà Lã Bất Vi mong muốn nhất khi đã trở thành thương nhân giàu có.

Thứ ba, trở thành Hoàng đế đầu tiên Trung Quốc, Tần Thủy Hoàng đứng trước sự phản kháng cũng như áp lực rất lớn, đặc biệt là tại lãnh thổ 6 nước trước đây. Vì vậy, Lã Bất Vi lan truyền mình là cha của Tần Thủy Hoàng, để Doanh Chính đường đường chính chính đoạt lấy giang sơn, không mang danh nhà Tần thống nhất thiên hạ. Cái hận mất nước của các sĩ phu 6 nước bị tiêu diệt cũng vì vậy mà tự mất đi.

 
Bi an than the Tan Thuy Hoang: La con cua La Bat Vi-Hinh-4
Thân thế thực sự của Tần Thủy Hoàng cho đến nay vẫn là bí ẩn. 
Thứ tư, đa số các tư liệu lưu trong sử sách nói Tần Thủy Hoàng là con của Lã Bất Vi đều xuất hiện từ đời nhà Hán trở đi. Nhà Hán chính là triều đại thay thế nhà Tần, vì vậy, các sử gia nhà Hán có nhiệm vụ phải phác họa hình ảnh nhà Tần một cách tiêu cực nhất có thể.

Mối quan hệ giữa Lã Bất Vi và Hoàng hậu nước Tần Triệu Cơ là thứ mà các nhà sử học khi đó không thể bỏ qua. Từ đó, nhà Hán có cớ để lý giải vì sao nhà Tần sụp đổ nhanh chóng chỉ sau vài chục năm.

Ngoài ra, các sử gia Trung Quốc hiện đại còn lập luận, một bộ phận lớn triều thần nước Tần vẫn tin vào việc Doanh Chính là con Tử Sở và vẫn hết lòng ủng hộ Doanh Chính lên ngôi.

Bên cạnh đó, chính quyền của Tần Thủy Hoàng vẫn đứng vững trước cuộc binh biến do Phàn Ô Kỳ phát động nhằm dựng Thành Kiệu lên ngôi. Đại tướng Vương Tiễn đi dẹp cuộc binh biến này trả lời Phàn Ô Kỳ: "Thái hậu có mang mười tháng mới sinh, vậy nay tức là con tiên vương đẻ ra..."

Những người theo thuyết Lã Bất Vi là cha Tần Thủy Hoàng cũng không thể lý giải một cách khoa học vì sao Triệu Cơ lại mang thai Doanh Chính tới 12 tháng mới sinh. Họ chỉ có thể lập luận theo cách "thiên mệnh" rằng: "Có thể tại lòng trời muốn sinh ra một vị chân mạng thiên tử nên mới để người mẹ hoài thai lâu như vậy...".

Theo lý giải khoa học hơn, Doanh Chính vẫn chỉ nằm trong bụng mẹ như những đứa trẻ khác, kể từ khi Triệu Cơ về với Tử Sở. Do cộng thêm thời gian Triệu Cơ còn ở với Bất Vi, nên thời gian mới trở thành 12 tháng.